NGOA_LONG
Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015
Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014
14 BÀI HỌC RÚT
RA TỪ NGHÈO KHÓ
1. Khi bạn hết tiền, bạn sẽ biết đâu là những người bạn thật sự.
Bố mẹ tôi là những người rất nhân hậu, ông bà luôn sống rất chan
hòa, giúp đỡ hàng xóm và những người khó khăn mà họ biết. Ông bà cũng có khá
nhiều bạn bè. Đến lúc gia đình tôi gặp sự cố, bố mẹ tôi phải lao đao khốn đốn
xoay sở mọi cách thì cũng là lúc những “người bạn” đó đột nhiên biến mất.
Hóa ra là việc tốt bụng và hào phóng không phải lúc nào cũng
được đền đáp. Khi bố mẹ tôi không còn gì để “cho” nữa thì những người xung
quanh, những người mà chúng tôi nghĩ là bạn, cũng đều nhanh chóng xoay lưng đi.
Và tất nhiên, vẫn còn đó những con người tốt bụng đã giúp đỡ và luôn bên cạnh
gia đình tôi trong cơn hoạn nạn cho đến tận bây giờ.
2. Chỉ nên giữ lại những người xứng đáng ở trong cuộc đời bạn.
Việc mất hết tất cả đã khiến cho tôi ngày càng trở nên chọn lọc
hơn với những người tôi cho là quan trọng trong cuộc đời mình. Các mối quan hệ
của tôi dựa trên tình yêu thương và sự tin tưởng chứ không phải là những giá
trị vật chất. Tôi vô cùng trân trọng và biết ơn vì điều đó.
3. Thật tuyệt khi hưởng thụ chính thành quả lao động của mình.
Lên năm thứ 3 đại học, tôi may mắn tìm được vào thực tập trong
một công ty tốt, tôi cũng tận dụng thời gian rảnh để viết lách và làm thêm một
số công việc freelance. Tôi cố gắng tự kiếm tiền bằng mọi cách, trang trải cuộc
sống cá nhân và đôi lúc có thể gửi chút tiền biếu bố mẹ. Tôi không phải
dựa dẫm vào kinh tế của gia đình nữa, tôi cảm thấy mình tự chủ, mạnh mẽ hơn
đồng thời cảm giác tuyệt vô cùng khi tôi biết rằng, những gì tôi có được ngày
hôm nay là từ chính đôi bàn tay và sự nỗ lực của bản thân tôi.
4. Không gì có thể thay thế được gia đình.
Chỉ vì tiền không còn không có nghĩa là tình yêu cũng biến mất.
Thực tế, tôi có thể vui lòng đánh đổi hết tất cả mọi thứ trên đời để vì gia
đình của mình. Gia đình là nơi bạn có thể tạm gác lại những mệt mỏi, lo âu và
toan tính để ngả lưng ngủ một giấc thật sâu. Gia đình luôn có tình yêu ngập
tràn hơn bất cứ nơi nào trên thế giới này. Dù ở đâu hay làm gì, gia đình cũng
là những người sẽ luôn dõi theo, ủng hộ và ở bên cạnh bạn, cùng bạn theo đuổi
những ước mơ.
8. Đừng
từ bỏ hy vọng.
Dù bạn
có cứng cỏi và mạnh mẽ thế nào đi nữa cũng đừng bao giờ từ bỏ những hy vọng của
mình. Nếu không có hy vọng, bạn biết sẽ phải theo đuổi thứ gì? Hy vọng giúp cho
bạn luôn ngẩng cao đầu và hướng về phía trước. Hãy luôn nâng niu và gìn giữ
những hy vọng vì đôi lúc, chúng là tất cả những gì bạn có.
9. Đừng
mong chờ sự thương hại.
Tôi
không tự thấy mình đáng thương với những bất hạnh mà gia đình mình gặp phải,
ngược lại tôi luôn cảm thấy đó là một trong những điều tốt đẹp đã xảy ra với
mình. Và hơn bao giờ hết, tôi không bao giờ muốn ai cảm thấy thương hại cho
tôi. Tôi chỉ hy vọng rằng qua những chia sẻ về suy nghĩ và cảm xúc của mình,
những người mà đã từng trải qua những chuyện như tôi có thể tìm thấy sự đồng
cảm và sẻ chia.
10. Một
món đồ đơn giản chỉ là một món đồ…
Nhưng
nếu bạn có phong cách, bạn sẽ có thể làm cho chúng trở nên đáng giá hơn gấp
trăm lần. Tiền có thể mua được những thứ vật chất nhưng phong cách là thứ vô
giá.
11.
Hiểu được giá trị của đồng tiền
Tôi
sống rất tiết kiệm và quản lí chi tiêu của mình khá chặt chẽ. Tôi mang cơm đi
làm thay vì ăn trưa đắt tiền ngoài hàng, tôi chẳng bao giờ xài hàng hiệu đắt đỏ
hoặc mua sắm không kiểm soát. Tôi thích dành dụm tiền cho những thứ lớn lao hơn
và luôn tìm cách để sử dụng đồng tiền của mình một cách hiệu quả nhất.
12.
Đừng cứ ôm khư khư mọi thứ vì chẳng gì có thể tồn tại mãi được
Đơn
giản thôi, không gì là mãi mãi – kể cả sự giàu có, tài sản vật chất cho đến
tình bạn, tình yêu… Bạn cần phải luôn sẵn sàng để buông tay khi đã đến lúc cho
dù điều đó là rất khó và khiến bạn rất đau.
13. Tự
hào về thành quả của mình chẳng có gì là sai
Khi
trong nhà tôi đến trái trứng gà cũng phải chắt chiu mới mua được thì mẹ đã nói
với tôi rằng: “Khi ngã xuống nước, một là con chìm, hai là phải cố hết sức để
bơi vào bờ”.
Từ sau
đó, mọi việc tôi làm tôi đều nỗ lực hết mình và tôi dần đạt được thành quả. Tôi
trở nên ham muốn sự thành công hơn bao giờ hết và không gì có thể ngăn được tôi
hoàn thành mục tiêu của mình. Tôi luôn tự hào vì mình đã có thể đứng vững và
vượt qua được những thử thách từng gặp phải.
14.
Đừng mơ mộng về Bạch Mã hoàng tử nữa
Tôi sẽ
không bao giờ lấy một người mà họ không biết quý trọng tôi. Tôi cần một người
yêu, một người bạn đồng hành, người mà luôn sẵn sàng đến bên tôi khi tôi cần,
một người có cùng mục đích sống, mục tiêu, một người có thể cùng tôi chia sẻ
những băn khoăn, trăn trở, hỗ trợ tôi và cùng tôi vượt qua những khó khăn trong
cuộc đời – một người có thật chứ không phải là chàng hoàng tử cổ tích nào đó đến
cứu rỗi đời tôi.
5. Tài sản lớn nhất của bạn chính là… bản thân bạn.
Bạn cần phải tin tưởng vào bản thân mình trước khi muốn làm bất
cứ một việc gì. Và dù có ra sao đi nữa, giá trị của bản thân bạn là thứ bạn
không bao giờ nên đánh đổi.
6. Tham vọng là thứ gây nghiện.
Khi gia đình tôi không còn khá giả như trước, tôi nhận ra rằng
tương lai trước mắt đều phụ thuộc vào bản thân mình và tôi có trách nhiệm cho
sự thành công của cuộc đời mình.
Từ một thực tập viên không lương, tôi đã nỗ lực hết mình trở
thành thực tập viên được trả lương, thành nhân viên chính thức của công ty, và
được cho quản lý một dự án nhỏ của tập đoàn – tất cả đều đến trước khi tôi
chính thức tốt nghiệp đại học. Tôi hạnh phúc với sự thành công của mình và mong
mỏi đạt được nhiều thành quả hơn nữa. Thử thách và sự nghèo khó dường như đã
châm trong tôi một ngọn lửa tham vọng lúc nào không biết. Tôi ham muốn sự thành
công là vậy nhưng một điều chắc chắn là tôi sẽ không dẫm đạp lên người khác
hoặc đánh đổi lương tâm của mình để đạt được những gì mình muốn.
7. Bạn cần phải trở nên cứng cỏi.
Hãy giữ mức độ tổn tương trong tầm kiểm soát. Bạn phải chuẩn bị
cho mọi thứ, kể cả điều tồi tệ nhất. Tôi không phải trở nên chai lì sắt đá
nhưng sẽ cố gắng để bảo vệ mình và những người mình yêu thương khỏi những tổn
thương, càng nhiều càng tốt.
Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014
Quan điểm vô
vi của Lão Tử và vô vi của Đạo Phật
Tương đạo Phật
tư tưởng vô vi được đề cập thông qua hệ thống kinh Bát Nhã và một số tư tưởng về
vô vi của Lão Tử đã tương đồng nhưng bên cạnh đó cũng có các điểm khác nhau.
DẪN NHẬP
Hơn hai ngàn
năm trước, trong khi châu Âu còn nằm trong bóng tối của sự man rợ, Hy Lạp đang
mở rộng ảnh hưởng chính trị và văn hóa của mình thì Trung Hoa đã là một xã hội
tổ chức tương đối có kỷ cương với nếp sinh hoạt văn hóa cao nhất từ trước tới
nay. Đó là nhận định được nhiều học giả phương Tây cùng chia sẻ.
Thời Xuân Thu
của Trung Hoa kéo dài từ năm 722 tới năm 481 trước công nguyên. Trong tình trạng
triền miên tao loạn của Trung Hoa, xuất hiện nhiều triết gia với nhiều lý thuyết
khác nhau, được gọi là Bách gia chư tử. Vượt lên trên các triết gia ấy, Lão Tử
— cùng Khổng Tử — là hai nhân vật nổi bật nhất. Với cuốn Đạo Đức Kinh, Lão Tử
là người đầu tiên tại Trung Hoa đưa ra một quan niệm về vũ trụ. Những lời trong
cuốn sách nhỏ ấy của ông thấm sâu vào dân tộc Trung Hoa, làm cốt lõi của văn
hóa Trung Hoa, vừa tạo thú sống cho tao nhân quân tử vừa như một tôn giáo cho
giới bình dân ngưỡng vọng.
Nền minh triết
của Đạo Đức Kinh cũng được khai triển bởi các danh gia tự xem là môn đệ của Lão
Tử, về sau trở thành một nền học thuật rồi dần dà biến thành một tôn giáo thần
bí. Tại phương Tây, từ khoảng một trăm năm nay, Lão Tử ngày càng có mặt trong
phạm vi nghiên cứu của nhiều học giả thuộc bộ môn triết ở các đại học, cho tới
các trí thức muốn tìm cho mình một lối suy tư và sống thanh thoát giữa lòng xã
hội bị cơ khí hóa và mê thích tiêu thụ. Hơn bao giờ hết xã hội càng văn minh
thì con người càng đánh mất chính mình. Sự tranh giành về quyền lợi, vật chất
đã làm cho con người ngày càng mất dần những giá trị đạo đức. Quan niệm vô vi của
Lão Tử đã trở nên quan trọng cũng như quan niệm vô vi của Phật giáo đã góp phần
làm cho xã hội tốt đẹp hơn. Vì thế mà người viết đã chọn đề tài “So sánh tư tưởng
vô vi của Lão Tử với tư tưởng vô vi của đạo Phật”.
Về phương
pháp nghiên cứu người viết dùng phương pháp phân tích nhũng sự kiện hay thông
tin có sẵn mà phân tích chúng để có được một sự đánh giá tài liệu một cách có
phê phán. Bên cạnh đó có sử dụng một số phương pháp khác dựa trên mục tiêu
nghiên cứu hay hoàn cảnh nghiên cứu để làm sáng tỏ đề tài mong rằng sẽ đóng góp
một phần nào làm rõ đề tài này.
NỘI DUNG
1. ĐẶC ĐIỂM
KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC THỜI XUÂN THU
Thời Xuân Thu
(khoảng 770 – 475 tr.CN). Đây là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ
sang chế độ phong kiến, còn gọi là thời Đông Chu, do Chu Bình Vương dời đô về
phía Đông (Lạc Dương, Hà Nam ngày nay).
1.1. Đặc điểm
kinh tế
Đồ sắt phát
triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác phát triển. Nền sản xuất nông nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phân công lao động và chuyên môn
hoá sản xuất ngày càng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế
đã có tác động mạnh đến hình thức sở hữu ruộng đất, kết cấu và địa vị kinh tế của
các giai tầng trong xã hội.
1.2. Đặc điểm
chính trị
Thời Xuân
Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa,
kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh giành địa vị xã hội của
các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc
liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ thị tộc
nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia
trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường
cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó của thời đại đã đặt ra và làm
xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự
xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ
này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia minh tranh”
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh các tư tưởng lớn và
hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
1.3. Đặc điểm
tư tưởng triết học
Thứ nhất là nền
triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại,
tư tưởng liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức,
triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự nhiên có phần
mờ nhạt.
Thứ hai là
chính trị đạo đức, các triết gia Trung Hoa đều tập trung vào lĩnh vực luân lý đạo
đức, xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một
đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.
Thứ ba là nhấn
mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Các nhà triết học nhấn mạnh
sự hài hoà, thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất của các mối
liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà các mâu thuẫn là mục tiêu
cuối cùng để giải quyết các vấn đề.
Thứ tư là tư
duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy triết học cổ, trung đại
Trung Hoa là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Cảm
nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn
khớp, khơi vậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà nắm bản
thể trừu tượng.
Phương thức
tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của
nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”.[1]
Chính vì những
đặc điểm về kinh tế chính trị và tư tưởng triết học nên đã ảnh hưởng đến tư tưởng
vô vi của Lão Tử.
2. TIỂU SỬ VÀ
CUỘC ĐỜI CỦA LÃO TỬ
2.1. Tiểu sử
Lão Tử (老子) là một nhân vật
chính trong Triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn
đang còn được tranh cãi. Theo sử ký của Tư Mã Thiên, Lão Tử họ Lý tên Nhĩ, hiệu
là Bá Dương, thụy là Đam. Có người nói đó là Thái sử Đạm, Lão Lai Tử. Theo truyền
thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỷ thứ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng
ông sống ở thế kỷ thứ 4 TCN, Có người còn đưa thời điểm cụ thể về cuộc đời của
Lão Tử, cho rằng ông chào đời rồi tạ thế trong khoảng 580-500 trước công
nguyên, cuối thời Xuân Thu. Ông sinh ra ở huyện Khổ (苦縣) nước Sở (楚), hiện nay là Lộc
Ấp (鹿邑)
thuộc tỉnh Hà Nam. Lão Tử được coi là người viết Đạo Đức Kinh (道德經) - cuốn sách Đạo
giáo có ảnh hưởng lớn, và ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo (Đạo tổ 道祖).[2]2.2. Cuộc đời
Lão Tử đã trở
thành một anh hùng văn hoá quan trọng đối với các thế hệ người Trung Quốc tiếp
sau. Một số truyền thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đã bạc trắng, vì ông đã
nằm trong bụng mẹ tám hay tám mươi năm, điều này giải thích cho cái tên của
ông, có thể được dịch thành "bậc thầy già cả" và "đứa trẻ
già".
Theo truyền
thống, và một tiểu sử gồm cả trong cuốn sử của Tư Mã Thiên, Lão Tử sống cùng thời
với Khổng Tử và sinh trước hay sau vài chục năm. Nếu đúng thế tức là khoảng thời
gian thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, cùng thời với các triết gia Hy Lạp tiền
Socrates như Heraclitus và Pythagoras. Lão Tử là người làm chân giữ sách trong
thư viện triều đình nhà Chu. Khổng Tử đã có ý định hay đã tình cờ gặp ông ở
Chu, gần nơi hiện nay là Lạc Dương, nơi Khổng Tử định đọc các cuốn sách trong
thư viện. Theo những câu chuyện đó, trong nhiều tháng sau đó, Khổng Tử và Lão Tử
đã tranh luận về lễ nghi và phép tắc, vốn là những nền tảng của Khổng giáo. Lão
Tử phản đối mạnh mẽ những nghi thức mà ông cho là rỗng tuếch. Truyền thuyết Đạo
giáo kể rằng những cuộc tranh luận đó có ích cho Khổng Tử nhiều hơn so với những
gì có trong thư viện.
Sau này, Lão
Tử nhận thấy rằng chính sự của vương quốc đang tan rã và quyết định ra đi. Ông
đi về phía Tây trên lưng một con trâu nước qua nước Tần và từ đó biến mất vào
sa mạc rộng lớn. Truyền thuyết kể rằng có một người gác cửa tên Doãn Hỷ ở cửa
phía tây của ải Hàm Cốc thuyết phục Lão Tử viết lại những hiểu biết của mình
trước khi đi vào sa mạc. Cho tới lúc ấy, Lão Tử mới chỉ nói ra các triết thuyết
của ông mà thôi, và giống như trường hợp của Jesus, Phật, và Khổng Tử (những cuốn
văn tuyển của họ hầu như được hoàn thành bởi các đệ tử). Theo yêu cầu của người
lính đó, Lão Tử đã viết để lại cuốn "Đạo Đức Kinh". Nhiều cuốn ghi
chép và bức tranh về Lão Tử còn lại đến ngày nay, thường thể hiện ông là một
người già hói đầu với một chòm râu trắng hay đen và rất dài; ông thường cưỡi
trên lưng một con trâu nước.
Khi ông đã
khuất bên kia cửa ải, người đời không còn biết tung tích ông. Khảo chứng của
người đời sau cho rằng bài viết về Lão Tử trong Sử ký hẳn do hậu thế thêm vào,
còn lời cảm khái của Khổng Tử là do một đạo gia nào đó bịa ra để tôn vinh sư tổ
của mình. Như thế, hình ảnh ông thầy già cưỡi trên lưng một con trâu nước đi ra
quan ải và con rồng bay liệng trên không cũng chỉ ở trong cõi huyền thoại.
Chúng tạo thêm vẻ thần bí mông lung, như hàng trăm câu chuyện khác về hành trạng
và hoàn cảnh sáng tác của văn thi sĩ Trung Hoa thời cổ. Nhưng dù gì đi nữa, ngụ
ngôn ấy cũng làm nổi bật thêm giá trị tư tưởng, cuộc sống lãng đãng và phong
thái phiêu hốt của tác giả và làm hình ảnh của Lão Tử càng thêm huyền thoại.
3. LÃO TỬ VỚI
ĐẠO ĐỨC KINH
Đạo đức kinh
là cuốn sách chỉ khoảng 5000 chữ, gồm hai phần. Thượng là Đạo Kinh gồm 37
chương, bàn về Đạo lớn của vũ trụ. Hạ là Đức Kinh gồm 44 chương bàn về Đức. Lão
Tử đã viết theo hình thức câu dài ngắn khác nhau, giàu âm điệu và đọc lên nghe
như thơ tự do thời nay. Súc tích. Không chấm câu. Không lý luận. Không chứng
minh dài dòng. Thể được dùng là cổ văn, một loại văn ngắn gọn, dễ thuộc lòng
nhưng không dễ hiểu. Vì thế, nó có vẻ như chỉ gợi ý và bắt người đọc phải ngẫm
nghĩ, tưởng tượng, lắng nghe tiếng dội lại từ lòng mình. Và người đọc có rất
nhiều cơ hội tiếp nối quá trình sáng tạo, tư duy, cho tác phẩm sinh động, thấm
sâu, được triển khai thêm theo mỗi lần đọc.
Ngoại trừ hai
vấn đề chính là Đạo và Đức, sách còn trình bày kiến thức sơ lược về binh pháp,
thiên văn, dưỡng sinh... Có người dựa vào nội dung, cắt nghĩa rằng mục đích của
Lão Tử là truyền thông điệp trị quốc, một loại triết lý chính trị. Có người lại
nhấn mạnh tới phẩm chất tâm linh đạo học của nó.
Các bản lưu
truyền từ hơn hai ngàn năm nay có khác nhau đôi chút về một số chữ hoặc cách chấm
câu. Năm 1973, tại Trường Sa, ngành khảo cổ học tìm thấy một bản bạch thư dưới
một mộ cổ đời Hán, trong đó phần Đức Kinh được đem lên trước phần Đạo Kinh. Bản
khai quật này có giá trị tham khảo rất lớn vì hơi khác các bản hiện hành. Cho tới
nay, Đạo Đức Kinh có tới cả trăm bản dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây
Ban Nha, v.v. Riêng trong tiếng Việt có các bản dịch của Nguyễn Duy Cần, Nghiêm
Toản, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Tôn Nhan…
4. SO SÁNH TƯ
TƯỞNG VÔ VI CỦA LÃO TỬ VỚI TƯ TƯỞNG VÔ VI CỦA PHẬT GIÁO
4.1. Tư tưởng
vô vi của Lão Tử
Khái niệm vô
vi trong Đạo Đức kinh thường được hiểu lầm là không nên làm gì cả, nhưng thật
ra Lão Tử khuyên rằng làm mà như không làm, và không làm những điều không nên
làm. Ông cũng viết rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng có thể chảy đến bất
cứ nơi nào, và với một khối lượng lớn thì có thể làm lở cả đất đá. Như vậy vô
vi có thể ví von với cách hành xử của nước. Quan niệm vô vi của ông được đề cập
với nhiều lĩnh vực mà ta sẽ bắt gặp trong Đạo Đức kinh.
4.1.1. Tư tưởng
vô vi đối với vấn đề quốc trị
Tương tự như
Khổng Tử, Lão Tử sinh trưởng trong giai đoạn chiến tranh triền miên cho nên rất
ưu tư về vấn đề quốc trị. Ông thấy là “dân đói vì người trên lấy thuế nhiều cho
nên dân đói, dân khó trị vì người trên theo hữu vi cho nên dân khó trị,”..
“thiên hạ nhiều kiêng kỵ thì dân càng nghèo; dân nhiều lợi khí thì quốc gia
thêm mờ tối, người càng nhiều xảo thuật thì vật kỳ lạ càng xuất hiện, pháp luật
càng sáng tỏ thì trộm cướp càng nhiều.” Và vì nhận xét như vậy cho nên Lão Tử
chủ trương rằng người lãnh đạo quốc gia phải áp dụng sách lược vô vi để trở về
(phản phục) với đạo hay cái gốc tự nhiên ban đầu thì mới có thể an bang tế thế.
“Phản
phục (trở về) là cái động của đạo. “Động mà không động, không động mà động”, yếu
mềm là cái dụng của đạo. Ông cho rằng với đường lối vô vi: lo cho dân no ấm, mạnh
khỏe và dạy cho dân sống tự nhiên hợp với môi trường chung quanh, không suy
nghĩ hay thèm thuồng mỹ vật. Một khi dân được ấm no, không bệnh tật và không
ham chuộng của quý vật lạ cũng như không có nhu cầu khoe tài hay ganh đua để được
lãnh tụ yêu mến thì dân đã thấm nhuần tinh thần vô vi (không làm); và khi đã
theo vô vi rồi thì dẫu có kẻ tài trí, tham lam xách động nhân dân nổi loạn thì
họ cũng không làm (vô vi). Như vậy, nếu muốn lòng dân không loạn thì người lãnh
tựu của quốc gia phải biết lo cho dân, không đặc ra sưu cao thế nặng, không bóc
lột.Lãnh tụ quốc
gia phải biết thương dân, không thể chỉ đặt ra luật lệ và đợi dân làm sai rồi
hành hạ, giam cầm, xử trảm. Lãnh tụ quốc gia có nhiệm vụ chỉ bảo nhân dân hướng
thiện theo đạo chứ không thể đem cái chết ra hăm dọa nhân dân. Tương tự như con
thú khi bị dồn vào chân tường thì cắn lại, nhân dân khi bị bóc lột, khổ sở hết
mức thì hết sợ chết; mà khi nhân dân hết sợ chết thì sự dọa nạt của lãnh tụ trở
nên vô dụng. Kẻ nào dùng bạo lực để trị quốc thì “hiếm khi không bị thương ở
tay”. Thương dân thì phải lo cho dân no ấm, tránh sưu thuế cao và không ép buộc
dân phục dịch. Nếu kẻ ở trên sống xa xỉ, thâu sưu thuế cao mà còn bắt dân phục
dịch thì nhân dân chỉ có thể chịu đựng đến một mức độ nào đó rồi trở nên loạn bởi
vì họ không còn sợ chết nữa. “Thánh nhân vi phúc, bất vi mục” (Thánh nhân vì
cái bụng mà không vì con mắt). Lãnh tụ quốc gia không nên đam mê cái bề ngoài
xa xỉ mà ngược lại phải biết thương dân, lo cho dân no bụng và tránh những hành
động ép dân vào cái thế khinh tử.
Bậc thánh
nhân chủ trương trị quốc theo phương pháp vô vi nhằm giảm thiểu phép tắc vốn được
đặt ra để áp bức và trừng phạt nhân dân. Lãnh tụ quốc gia theo đạo sẽ hướng dẫn
nhân dân noi theo gương của mình, dùng cái thanh liêm của mình để dạy dỗ dân bỏ
đi lòng tham dục cũng như các hành động xấu. Dần dần nhân dân trở thành thuần hậu
và sống theo tự nhiên, chất phác mà không bị phép tắc chính trị gò bó. Luật lệ
hà khắc được đặt ra (hữu vi) nhằm khiến người ta sợ nhưng hiếm khi tiêu diệt hết
được các tệ nạn xã hội; trong khi đó đường lối vô vi không dựa trên phép tắc rườm
rà lại có thể cảm hóa nhân dân để họ theo con đường thiện hợp với cái đạo của tạo
hóa.
Lão Tử không
chủ trương dùng pháp luật để trị quốc mà cổ võ cho sách lược đạo trị (vô vi) để
vạn vật phát triển tự nhiên (không bày ra phép tắc, xảo thuật để gò ép nhân
dân). Theo ông, nếu muốn hướng thiện thì đừng trừng phạt kẻ xấu mà nên dùng tư
cách thánh nhân để cảm hóa kẻ xấu.
Chính sách quốc
trị cao nhất là đạo trị, rồi mới đến đức trị (nhân trị), và rồi đến pháp chế;
chính sách xảo trị (dùng xảo thuật để cầm quyền) là phương pháp thấp nhất vì
lãnh tụ không còn được nhân dân tin tưởng nữa mới dùng đến xảo thuật. Lãnh tụ
không tin dân cho nên mới bày kế để gò ép dân; dân không tin lãnh tụ cho nên phải
đóng kịch sợ sệt hay cung kính để lừa gạt lãnh tụ. Hai bên đều dùng bề ngoài xảo
trá để làm bình phong che giấu sự bất tín.
Quốc gia lý
tưởng trong nhãn quan của Lão Tử là một quốc gia nhỏ mà trong đó nhân dân sống
thuận với thiên nhiên, biết vừa đủ mà không ham biết nhiều, không muốn tư dục,
không ganh đua bề ngoài, mà chỉ sống theo đạo vô vi. Trong quốc gia lý tưởng
này, người dân sống chất phác, hiền lành, thuần phục với thiên nhiên; bởi vì
hài lòng với cuộc sống thiên nhiên, con người không lìa xa nơi sinh trưởng,
không có lòng tham để tranh giành quyền lợi. Con người không tranh giành quyền
lợi thì thiên hạ không có chiến tranh cho nên quốc gia dẫu có xe cộ, thuyền bè,
binh giáp cũng không dùng đến. Khi người dân có đời sống thái hòa gần gũi với
thiên nhiên thì lãnh tụ quốc gia có thể “giũ áo, chắp tay, không làm (vô vi)”
mà thiên hạ cũng được thái bình.[3]
4.1.2. Tư tưởng
vô vi với tự nhiên
“Vũ
trụ bao la vô cùng tậnNhân sinh tự
cổ vốn Vô Thường”
Trong Đạo Đức
kinh Lão Tử viết: “vạn vật trong trời đất sanh từ có (hữu), (hữu) có sanh từ không
(vô). Hữu vô đều từ thiên đạo”
“Không
tức thị CóCó tức thị
Không
Có có, Không
không
Không không,
Có có
Có rồi lại
Không
Không rồi lại
Có
Có cũng như
không
Không tốt hơn
có
Không có mà
Có
Có vẫn hơn
Không
Có Không,
Không Có”
Hữu vô trong
thể nghiệm của Lão Tử không có gì bằng nguồn gốc căn bản trước đó của vạn vật
[4]. Trong sách Lão Tử viết: “vô, danh, thiên địa chi thỉ; địa, danh vạn
vật chi mẫu”[5]. Vô là sự bắt đầu của trời đất , hữu là mẹ của vạn vật. Lão Tử
tiếp tục khẳng định: “Cái bắt đầu trong thiên hạ, là mẹ của vạn vật trong nhân
gian”[6] . Thiên đạo là nguồn gốc của sự bắt đầu, là mẹ của sự sanh thành,
là cái vô siêu việt, lại là cái hữu nội tại; Thiên đạo độc lập, không thay đổi
và tồn tại khắp nơi. Theo lập trường của Lão Tử: Thiên đạo không phải là vạn vật
nếu không các nhược điểm của vạn vật thiên đạo đều có. Thiên đạo không thể tách
rời vạn vật nếu không thì không thể duy trì sự tồn tại của mọi vật trong mọi
lúc mọi nơi. Từ quan điểm “Thiên đạo không phải là vạn vật” có thể nói thiên đạo
là vô Từ quan điểm “ Thiên đạo không thể tách rời vạn vật” có thể nói thiên đạo
là hữu. Vô là tách hữu hạn không phải là vạn vật, hữu là hữu cùng tồn tại với vạn
vật; Hữu vô đều là “đạo”.
Theo Lão Tử:
con người vô vi, tự nhiên vô bất vi, thánh nhơn vô vi, bách tánh vô bất vi,
thiên địa vô vi, trừ đi sai lầm của “ hành động tạo tác của con người”, thì sẽ
trở về với sự tốt đẹp của tự nhiên, đây cũng là ý “ vô vi nhi bất vi của Lão Tử”.
Bản chất của vô vi là vô bất vi, trong hạn định các khó khăn của nhơn sanh, cần
có trí tuệ để nhìn nhận về sanh mạng có thể phá trừ chấp trước và hóa giải hành
vi tạo tác của con người, sanh mạng con người là tạm thời, tự nhiên mới là trường
cửu , cơ thể con người có thể bị hủy hoại nhưng thiên đạo thì vĩnh hằng. Theo
Lão Tử thái độ sống “vô vi” của con người đó là con đường duy nhất trừ đi “tạo
tác của con người” để trở về với tự nhiên. Con đường này chính là “đạo pháp tự
nhiên” cũng chính là vô vi.[7]
Tại Trung
Hoa, trước Lão Tử, chưa triết gia nào khởi xướng vũ trụ luận. Học thuyết trọng
tâm của Lão Tử là Đạo và Đức.
Đạo sinh một,
một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Lão Tử đếm vài con số rồi phán như
thế, và ta hiểu ý của ông cho rằng không thể định nghĩa Đạo, nhưng Đạo có trước
vũ trụ và Đạo là nguồn gốc của vũ trụ. Theo Lão Tử, trời đất muôn vật do Đạo mà
sinh thành. Đạo là cái hỗn mang chưa phân, là cái nguyên thủy và là sự vận động
hằng cửu mà ta không thể cảm, không thể biết. Đạo vô danh vô hình, là căn
nguyên và cốt lõi của muôn vật. Muôn vật đều khởi đi từ Đạo, đi theo Đạo và
quay về Đạo.
Còn Đức? Chữ
Đức ở đây không phải là đức hạnh hiểu theo lối luân lý thông thường, mà là phải
hiểu theo nghĩa của Lão Tử. Đức là “mầm sống ngấm ngầm” trong vạn vật. Đạo thì
sinh ra còn Đức thì nuôi nấng. Người sống có Đức là sống theo Đạo. Người bắt
chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước tự nhiên.
Tới đây, ta
chớm hiểu. Cái Đạo “phi thường Đạo” được Lão Tử nói đến là thiên nhiên, năng lượng
sức sống và sự vận hành của thiên nhiên. Cũng có thể gọi là tự nhiên hoặc thiên
lý. Và Đức là cứ theo tự nhiên mà sống, thuận theo thiên lý mà lưu hành. Trong
cái Đạo của vũ trụ ấy, thiên nhiên và những qui luật của chúng tập hợp thành
cái trụ cốt, cái bản thể, còn đất trời và sinh linh, v.v. là những thực thể có
vị trí thích hợp và chức năng thích hợp, thao tác theo một thể thức tự nhiên. Đạo
ấy chỉ được biết bằng trực quan, không bằng lý trí. Lão Tử không lập luận về Đạo
vì ông chống lý trí. Theo ông, lý trí khiến ta nhìn cuộc đời với con mắt nhị
nguyên, phân chia thế giới nội tâm và ngoại lai, con người với thiên nhiên, thế
gian với vũ trụ, thiện và ác, vinh và nhục, đúng và sai, cao và thấp..., làm ta
xa lìa đạo. Lão Tử không mất công giảng giải về Đạo, ông chống tri thức và trí
năng. Ông cho rằng tri thức không giúp cho người ta sống theo Đạo và Đức. Nó chỉ
làm cuộc sống thêm phức tạp; nó chế tạo cơ khí khiến sinh ra “cơ tâm”; nó bày đặt
lý thuyết này nọ khiến đưa tới xung khắc... Trí năng khiến người ta phân biệt
cái hay cái dở nên sinh ra ham muốn. Ông chủ trương bỏ trí năng, bỏ văn tự, bỏ
việc dạy dỗ dân, để dân chúng sống mộc mạc, tự nhiên. Lão Tử không chịu nói nhiều
về Đạo vì ông hiểu rõ giới hạn truyền đạt của ngôn ngữ. Tóm lại, Đạo, cái lý tự
nhiên trong con người và vũ trụ, thì hư vô, mênh mông, sâu thẳm và ngập tràn tới
độ nằm ngoài tầm nắm bắt của lý trí, nhận biết của tri thức và diễn đạt của
ngôn từ. Lão Tử nhìn sự vật thường xuyên biến đổi và nhận ra luật mâu thuẫn nơi
vẻ ngoài của vạn vật, “cái yên tĩnh là chủ của cái xáo động, cái quí lấy cái tiện
làm gốc, cái cao lấy cái thấp làm gốc, cái thật đầy thì giống như trống không,
con người thật khôn khéo thì trông giống như vụng về...”
Ông còn nhận
ra luật phản phục ở bên trong vũ trụ, “vật gì phát tới cực điểm thì phản hồi, hễ
tăng rồi thì phải hao giảm — trăng tròn rồi khuyết, hết mùa đông tới mùa
xuân... Cùng tắc biến, biến tắc thông....” Trong cùng một lúc, bị chi phối bởi
luật mâu thuẫn và luật phản phục, vũ trụ vận hành với Đạo, vạn vật đều nương tựa
vào nhau mà sinh tồn và tương tác tạo điều kiện cho nhau “có và không cùng
sinh; khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng nghiêng,
thanh và âm cùng họa, trước và sau cùng theo”. Tuy Đạo không thể hiểu, không thể
bàn, không thể nói nhưng Lão Tử cho rằng loài người chỉ tự mình phục vụ mình tốt
nhất bằng việc đi trên con đường Đạo. Để xoay xở trong tình cảnh nghịch lý đó
thì có Đức. Sống có Đức tức là sống không phân biệt nhị nguyên, không khiên cưỡng,
sống tự nhiên, vi vô vi — làm một cách tự nhiên — và đi đúng con đường vận hành
của Đạo.
4.2. Tư tưởng
vô vi của đạo Phật
Nếu nhận định
nghiêm túc thì khái niệm vô vi chỉ có ở Lão học, nó không giống với với khái niệm
“vô của tánh không trung đạo duyên khởi”. “Vô của tánh không trung đạo duyên khởi”
của triết lý Trung Quốc có nguồn gốc từ tư tưởng kinh “Bát Nhã” và luận “Duy thức”
của Phật giáo Đại thừa Ấn Độ và được truyền vào Trung Quốc. Tư tưởng “vô của
tánh không trung đạo duyên khởi” ở Trung Quốc được duy trì và phát triển mạnh để
sau đó trở thành một thái độ và triết sống của con người Trung Quốc. Triết lý
mà người ta hay nói là “vô vi của đạo Phật” đó là triết lý “tánh không của Bát
Nhã”, tánh không này chẳng phải không làm gì cả mà là tánh không trung đạo
duyên khởi, không để cho các vọng niệm sai lầm mê chấp của con người ảnh hưởng
và tác đọng đến sự tồn tại của vạn sự vạn vật mà tiếp nhận sự tồn tại và không
tồn tại của vạn vật theo các nhân duyên sanh khởi và hoại diệt của bản thân sự
vật. Khi nhân duyên hòa hợp đủ thi các pháp sanh thì gọi là hữu nhưng tánh chất
của pháp được gọi là hữu đó là không thật, nó chịu sự chi phối của luật sanh –
trụ- dị- diệt và biến đổi tùy theo nhân duyên. Khi các nhân duyên không đầy đủ
thì không có sự xuất hiện của các pháp và cái không xuất hiện này không phải là
“vô” là “không” trống rỗng mà không có tác dụng tạo tác của ý thức và cũng
không có sự hòa hợp của các nhân duyên nên pháp không xuất hiện. Sự xuất hiện tồn
tại của vạn vật trong mối tương quan của tánh không trung đạo duyên khởi này
không phải là “vô” và “ không” mà là không có tánh chất cố định thật mà tùy
theo nhân duyên mà sanh hay diệt. Cái bản chất duy trì huệ mạng của con người
và vạn vật để vận hành và tồn tại theo quy luật “ vô của tánh không trung đạo
duyên khởi” đó không phải là ý thức mà là trí tuệ của Như Lai Tạng. Mọi con người
đều có sẵn trí tuệ này nhưng mạt na thức chấp trước sanh ra các thứ ngã chấp về
thâm căn con người, trần cảnh của thế giới mà sanh ra vô số sanh vọng ảo tưởng.
Khi con người nhận thức được bản chất vạn pháp là không thật có, là duyên khởi
thì các thức điên đảo được chuyển thành trí tuệ sáng suốt và cứu cánh viên mãn
của tầm nhìn về trí tuệ đó là Phật tánh, là Như Lai Tạng, là Niết Bàn
Chú ý: Cần kết
hợp nội dung “bát nhã tánh không trung đạo và quá trình vận hành của các pháp
theo chiều thuận và nghịch từ tâm sanh chấp có ra vạn pháp, ngay từ vạn pháp có
cái nhìn sáng suốt không chấp trước để đưa thức trở lại với bản tánh thanh tịnh
của Như Lai, quá trình kết hợp không của “ bát bất trung đạo” và bách pháp duy
thức để triển khai ý “vô của tánh trung đạo duyên khởi”. Triển khai được “vô của
tánh không trung đạo” thì mới rõ được điểm gần giống và khác nhau của vô vi của
Lão Tữ và vô vi – “ vô của tánh không trung đạo duyên khởi” của Phật học
Tham khảo từ
giáo trình triết học Trung Quốc bản tiếng Hán của Đại Hoc Quốc Lập Không Trung
Đài Loan do nhóm giáo sư Dương Tổ Hán biên soạn. Chú ý cần kết hợp tốt phần ghi
chép nội dung bài giảng của giảng viên bộ môn, không quá tin vào tài liệu tham
khảo này.
5. SO SÁNH VỀ
HAI TƯ TƯỞNG
Tư tưởng vô
vi của Lão giáo vẫn ở trong cuộc đời dù không bon chen, tranh dành, nhưng khi
có vẫn nhận hưởng, còn tư tượng Phật Giáo bắt đầu từ chữ “Không” và có khuynh
hướng xuất thế.
Phật - Lão -
Nho là 3 triết thuyết lớn ảnh hưởng quan trọng tới đời sống tinh thần của người
phương đông trong đó có người Việt chúng ta. Ngã Phật từ bi, Lão chủ vô vi, Nho
dụng hữu vi mà độ, mà răn, mà tế thế. Chủ thể của Nho là người quân tử, đối tượng
của Lão là các bậc đế vương, còn Phật gia chỉ mong độ chúng sanh đạt thành Phật
đạo. Bàn về vô vi thì luận trong tư tưởng của Lão giáo và Phật giáo đều có đề cập.
Thật sự có khác nhau về cơ bản trong tư tưởng vô vi của hai giáo, đó là sự chấp
nhận “cái nguyên lý ban đầu” của Lão không giống “nhân duyên” của Phật còn hành
xử vô vi thì giống nhau.
Lão viết : “Đại
Đạo phế hữu nhân nghĩa” , lại viết: “hành vô vi chi Đạo” tức là Lão tin rằng có
một quyền năng rất lớn bao trùm thế giới đó là Đạo, Đạo có sức mạnh lan tỏa khắp
vũ trụ ảnh hưởng tới thịnh suy của mọi đời người, mọi thời cuộc. Đó là cái nguyên
lý ban đầu mà Lão Tử đã đưa ra như là một đấng Toàn năng điều khiển thế giới,
đó là nguyên lý “hữu thần” trong hầu hết giáo lý của các tôn giáo ngoại trừ Phật
giáo. Phật chỉ ra rất nhiều thế giới thần linh nhưng tất cả đều bị chi phối của
luật nhân quả , nên dưới góc nhìn của Phật giáo chúng thần, thiên, nhơn, atula
v.v... cũng chỉ là quảng đại chúng sanh cần phải tu tập, tuyệt nghiệp mới thành
Phật đạo. Phật nói “ta là Phật, các ngươi sẽ là Phật” tức chỉ ra nhơn duyên
sanh quả Phật do tu đắc mà thành, chứ không có vị Phật nào của các vị Phật điều
khiển sự “thành Phật” của chúng sanh, hay nói khác đi là sự thịnh suy của mọi đời
người, mọi thời cuộc do chính nhân duyên của đời người đó, thời cuộc đó quyết định.
Đây là nguyên lý “vô thần” của Phật giáo và nó là sự khác nhau cơ bản về tư tưởng
so với các tôn giáo khác trong đó đó Lão giáo.
“Hành
vô vi chi Đạo” nghĩa đen là không làm gì cả, có nghĩa là bảo ta không làm cái
không nên làm chứ không phải là bảo ta làm biếng, các bậc đế vương thấy được
cái không nên làm để không làm tức là Thánh đế, nhưng lẽ thường người đời thường
xảo biện nên Đạo lớn của Lão tử khó thành.Lão Tử than:
“Đại Đạo phế hữu nhân nghĩa, huệ trí xuất hữu đại ngụy ...”. Loài người càng
khôn ngoan hơn thì sự dối trá càng nhiều hơn và dùng “Lễ” để che đậy khéo léo
hơn , và cái sự làm “cái không nên làm” ngày càng nhiều hơn , chính vì thế mà Lảo
vô cùng khinh “Lễ” đặt nó xuống cùng trong trật tự xếp đặt của Ngài đó là Đạo-Đức-Nhân-Nghĩa-Lễ.
Có lẽ không đắc thời để phổ biến thuyết Đại Đạo của mình nên Lão làm cái nên
làm của mình là mất đi, mặc cho hậu thế bình phẩm. Cũng đúng thôi vì Lão chỉ
dùng vô vi để dạy cách làm vua, mong trên đời xuất hiện nhiều Thánh đế - một
chuyện khó xảy ra vì mấy ai không tư lợi hám giành quyền lực - nhờ Nho học hữu
vi các vị quân vương mới được bảo vệ bằng bình phong lễ giáo rất hữu hiệu, nào
là Tam cương, Ngũ thường, thuyết Thiên mệnh v.v... Nói như vậy không có nghĩa
là không tồn tại Lão giáo, mà tư tưởng Lão giáo luôn phát triển, góp phần giáo
dục nhân sinh quan cho từng cá nhân, luôn tự răn mình phải làm người tốt, không
để ảo ảnh hữu vi lôi kéo cám dỗ, lịch sử đã minh chứng có nhiều tấm gương hành
vô vi chi sự mà tên tuổi lưu mãi nghìn thu. Đạo Phật thường bảo “không gây nghiệp
chướng thì không phải trả nghiệp”, lời răn này thấy sao giống lời của Lão bảo
“đừng làm cái không nên làm” vì thế nói về lối hành xử vô vi thì Phật -Lão
tương đối giống nhau , có khác chăng chỉ là mục đích cuối cùng của hai đạo.
Các bậc minh
sư của nhà Phật ở nước ta phần lớn đều am tường Đạo pháp, trước khi đến với
kinh kệ Phật giáo các Ngài đều là học trò của Khổng Lão, nhờ tứ thư ngũ kinh mới
có vốn chữ Nho để nghiên cứu Kinh-Luật-Luận, vì thế Nho học và Lão học ảnh hưởng
rất lớn về mặt nhận thức của các vị. Kết hợp nhuần nhuyễn sự tương đồng trong
hành vô vi chi sự, các ngài đã sáng lập nhiều tông phái giáo chúng rất đông tín
đồ, ví như ngài Trần Nhân Tông bỏ ngôi vua nhưng không mong thành thánh đế,
ngài hành vô vi theo kiểu nhà Phật, lấy từ bi làm gốc để độ chúng, sáng lập thiền
phái Trúc Lâm truyền đời đến tận ngày nay.
Không những
thế đạo Lão còn quan niệm về cái tâm của con người:
Tướng do tâm
sanh
Tâm tịnh Thần
sáng
Thần sáng Trí
minh
Tâm bất tịnh,
Thần suy
Thần bất tịnh
Trí bất minh
cũng tương tự
như Phật giáo với quan niệm “Nhất thiết duy tâm tạo” , tất cả đều do tâm này
làm chủ tạo tác những thiện nghiệp hoặc ác nghiệp. Nó tương ứng với những hành
nghiệp mà chúng sanh đó đã tạo thiện hay bất thiện mà hiện tướng “thần minh trí
sáng”.
Có thể nói
hai quan điểm về tâm của hai tư tưởng tương tự nhau, đó là điểm tương đồng. Ông
khuyên tri nhân giả trí, tự tri giả minh, nghĩa là biết người khác chỉ mới là
trí, nhưng tự biết mình thì mới là sáng. Như vậy ông chú trọng đến việc tự
chinh phục bản thân hơn là chinh phục kẻ khác. Nên bằng lòng với cái mình có,
“tri túc chi túc hà thời túc, tri nhàn chi nhàn hà thời nhàn”, nghĩa là biết đủ
thì đủ và lúc nào cũng đầy đủ cả, biết nhàn thì nhàn và lúc nào cũng nhàn cả. Một
đặc tính căn bản của sách lược vô vi của Lão Tử là tiết kiệm. Thánh nhân không
phí sức, phí công thi triển tài năng, mà ngược lại thì tằn tiện trong mọi trường
hợp để bồi bổ, nuôi dưỡng ngay cả trong lúc phải thi thố tài năng. Sự sung mãn,
dồi dào đến từ nỗ lực tiết kiệm lâu dài sẽ đem đến thắng lợi. Đạo Phật cũng
khuyên người nên biết đủ với những gì mình đã có, không lãng phí mà biết giữ
gìn phước về sau. Sự tạo phước rất khó khăn nên phải biết tích trữ phước, nếu
không khi phước không còn thì ắt phải bị đọa lạc.
Với những
quan niệm và những diễn giải tổng hợp và biện chứng về tư tưởng vô vi, Lão giáo
đã sản sinh ra một hệ thống triết học đặc biệt gắn một cách lôgích nhận thức luận
với bản thể luận. Chính vì thế mà học thuyết về vô vi của Lão Tử đã được đồng
nhất với giáo thuyết của đạo Phật.
KẾT LUẬN
Tác phẩm của
Lão Tử, cuốn Đạo Đức Kinh, là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ý nhất
trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác của ông, đụng chạm tới nhiều
vấn đề của triết học từ tính chất duy linh của cá nhân và động lực giữa các cá
nhân cho đến các kỹ thuật chính trị. Lão Tử đã phát triển khái niệm "Đạo",
với nghĩa là "Con Đường", và mở rộng nghĩa của nó thành một trật tự vốn
có hay tính chất của vũ trụ: "(đạo là) cách thức của thiên nhiên".
Ông nhấn mạnh khái niệm vô vi, hay "hành động thông qua không hành động".
Điều này không có nghĩa là người ta chỉ nên ngồi một chỗ và không làm gì cả, mà
có nghĩa là ta phải tránh các mục đích rõ rệt, các ý chí mạnh, hay thế chủ động;
ta chỉ có thể đạt tới hiệu quả thực sự bằng cách đi theo con đường của mọi vật,
tự động tăng và tự động giảm. Những hành động được thực hành theo Đạo rất dễ
dàng và có hiệu quả hơn mọi cố gắng để chống lại nó. Lão Tử tin rằng cần phải
tránh bạo lực khi có thể, và rằng một chiến thắng quân sự nên là dịp để đau buồn
thay vì ăn mừng chiến thắng.
Tương đạo Phật
tư tưởng vô vi được đề cập thông qua hệ thống kinh Bát Nhã và một số tư tưởng về
vô vi của Lão Tử đã tương đồng nhưng bên cạnh đó cũng có các điểm khác nhau.
Cách giải thích tư tưởng của Lão Tử luôn sử dụng sự nghịch biện, loại suy, sử dụng
các câu nói từ trước, lặp lại, đối xứng, vần và chuỗi sự kiện lặp lại. Những đoạn
văn được cho là của ông rất giống thơ và khó hiểu. Chúng được coi là những điểm
khởi đầu cho sự suy xét về vũ trụ học hay quan sát nội tâm. Nhiều lý thuyết mỹ
học trong nghệ thuật Trung Quốc bắt nguồn từ những ý tưởng của ông và người kế
tục nổi tiếng nhất của ông là Trang Tử. Có thể nói tư tưởng vô vi của Trang Tử
và tư tưởng vô vi của của đạo Phật đã gặp nhau ở một điểm nào đó.
Lược dịch
Pic : Vương
- [1] Đặc điểm
triết học Trung Hoa cổ trung đại,
[2] Khổng Tử
và Đạo đức kinh
[3] (Trích từ
Diển Đàn Dân Chủ - Trích từ Triết Lý Quốc Trị Ðông Phương của Dương Thành Lợi
xuất bản vào năm 1996
[4] Lão Tử
chương 40
[5] Lão Tử
chương 1
[6] Lão Tử
chương 52
[7] Đạo đức
kinh, Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Duy Cần
Tương đạo Phật tư tưởng vô vi được đề cập thông qua hệ thống kinh Bát Nhã và một số tư tưởng về vô vi của Lão Tử đã tương đồng nhưng bên cạnh đó cũng có các điểm khác nhau.
DẪN NHẬP
Hơn hai ngàn năm trước, trong khi châu Âu còn nằm trong bóng tối của sự man rợ, Hy Lạp đang mở rộng ảnh hưởng chính trị và văn hóa của mình thì Trung Hoa đã là một xã hội tổ chức tương đối có kỷ cương với nếp sinh hoạt văn hóa cao nhất từ trước tới nay. Đó là nhận định được nhiều học giả phương Tây cùng chia sẻ.
Thời Xuân Thu của Trung Hoa kéo dài từ năm 722 tới năm 481 trước công nguyên. Trong tình trạng triền miên tao loạn của Trung Hoa, xuất hiện nhiều triết gia với nhiều lý thuyết khác nhau, được gọi là Bách gia chư tử. Vượt lên trên các triết gia ấy, Lão Tử — cùng Khổng Tử — là hai nhân vật nổi bật nhất. Với cuốn Đạo Đức Kinh, Lão Tử là người đầu tiên tại Trung Hoa đưa ra một quan niệm về vũ trụ. Những lời trong cuốn sách nhỏ ấy của ông thấm sâu vào dân tộc Trung Hoa, làm cốt lõi của văn hóa Trung Hoa, vừa tạo thú sống cho tao nhân quân tử vừa như một tôn giáo cho giới bình dân ngưỡng vọng.
Nền minh triết của Đạo Đức Kinh cũng được khai triển bởi các danh gia tự xem là môn đệ của Lão Tử, về sau trở thành một nền học thuật rồi dần dà biến thành một tôn giáo thần bí. Tại phương Tây, từ khoảng một trăm năm nay, Lão Tử ngày càng có mặt trong phạm vi nghiên cứu của nhiều học giả thuộc bộ môn triết ở các đại học, cho tới các trí thức muốn tìm cho mình một lối suy tư và sống thanh thoát giữa lòng xã hội bị cơ khí hóa và mê thích tiêu thụ. Hơn bao giờ hết xã hội càng văn minh thì con người càng đánh mất chính mình. Sự tranh giành về quyền lợi, vật chất đã làm cho con người ngày càng mất dần những giá trị đạo đức. Quan niệm vô vi của Lão Tử đã trở nên quan trọng cũng như quan niệm vô vi của Phật giáo đã góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn. Vì thế mà người viết đã chọn đề tài “So sánh tư tưởng vô vi của Lão Tử với tư tưởng vô vi của đạo Phật”.
Về phương pháp nghiên cứu người viết dùng phương pháp phân tích nhũng sự kiện hay thông tin có sẵn mà phân tích chúng để có được một sự đánh giá tài liệu một cách có phê phán. Bên cạnh đó có sử dụng một số phương pháp khác dựa trên mục tiêu nghiên cứu hay hoàn cảnh nghiên cứu để làm sáng tỏ đề tài mong rằng sẽ đóng góp một phần nào làm rõ đề tài này.
NỘI DUNG
1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC THỜI XUÂN THU
Thời Xuân Thu (khoảng 770 – 475 tr.CN). Đây là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, còn gọi là thời Đông Chu, do Chu Bình Vương dời đô về phía Đông (Lạc Dương, Hà Nam ngày nay).
1.1. Đặc điểm kinh tế
Đồ sắt phát triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác phát triển. Nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế đã có tác động mạnh đến hình thức sở hữu ruộng đất, kết cấu và địa vị kinh tế của các giai tầng trong xã hội.
1.2. Đặc điểm chính trị
Thời Xuân Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ thị tộc nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh các tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
1.3. Đặc điểm tư tưởng triết học
Thứ nhất là nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, tư tưởng liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai là chính trị đạo đức, các triết gia Trung Hoa đều tập trung vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.
Thứ ba là nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Các nhà triết học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà các mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết các vấn đề.
Thứ tư là tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy triết học cổ, trung đại Trung Hoa là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Cảm nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp, khơi vậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà nắm bản thể trừu tượng.
Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”.[1]
Chính vì những đặc điểm về kinh tế chính trị và tư tưởng triết học nên đã ảnh hưởng đến tư tưởng vô vi của Lão Tử.
2. TIỂU SỬ VÀ CUỘC ĐỜI CỦA LÃO TỬ
2.1. Tiểu sử
Lão Tử (老子) là một nhân vật chính trong Triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Theo sử ký của Tư Mã Thiên, Lão Tử họ Lý tên Nhĩ, hiệu là Bá Dương, thụy là Đam. Có người nói đó là Thái sử Đạm, Lão Lai Tử. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỷ thứ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỷ thứ 4 TCN, Có người còn đưa thời điểm cụ thể về cuộc đời của Lão Tử, cho rằng ông chào đời rồi tạ thế trong khoảng 580-500 trước công nguyên, cuối thời Xuân Thu. Ông sinh ra ở huyện Khổ (苦縣) nước Sở (楚), hiện nay là Lộc Ấp (鹿邑) thuộc tỉnh Hà Nam. Lão Tử được coi là người viết Đạo Đức Kinh (道德經) - cuốn sách Đạo giáo có ảnh hưởng lớn, và ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo (Đạo tổ 道祖).[2]2.2. Cuộc đời
Lão Tử đã trở thành một anh hùng văn hoá quan trọng đối với các thế hệ người Trung Quốc tiếp sau. Một số truyền thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đã bạc trắng, vì ông đã nằm trong bụng mẹ tám hay tám mươi năm, điều này giải thích cho cái tên của ông, có thể được dịch thành "bậc thầy già cả" và "đứa trẻ già".
Theo truyền thống, và một tiểu sử gồm cả trong cuốn sử của Tư Mã Thiên, Lão Tử sống cùng thời với Khổng Tử và sinh trước hay sau vài chục năm. Nếu đúng thế tức là khoảng thời gian thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, cùng thời với các triết gia Hy Lạp tiền Socrates như Heraclitus và Pythagoras. Lão Tử là người làm chân giữ sách trong thư viện triều đình nhà Chu. Khổng Tử đã có ý định hay đã tình cờ gặp ông ở Chu, gần nơi hiện nay là Lạc Dương, nơi Khổng Tử định đọc các cuốn sách trong thư viện. Theo những câu chuyện đó, trong nhiều tháng sau đó, Khổng Tử và Lão Tử đã tranh luận về lễ nghi và phép tắc, vốn là những nền tảng của Khổng giáo. Lão Tử phản đối mạnh mẽ những nghi thức mà ông cho là rỗng tuếch. Truyền thuyết Đạo giáo kể rằng những cuộc tranh luận đó có ích cho Khổng Tử nhiều hơn so với những gì có trong thư viện.
Sau này, Lão Tử nhận thấy rằng chính sự của vương quốc đang tan rã và quyết định ra đi. Ông đi về phía Tây trên lưng một con trâu nước qua nước Tần và từ đó biến mất vào sa mạc rộng lớn. Truyền thuyết kể rằng có một người gác cửa tên Doãn Hỷ ở cửa phía tây của ải Hàm Cốc thuyết phục Lão Tử viết lại những hiểu biết của mình trước khi đi vào sa mạc. Cho tới lúc ấy, Lão Tử mới chỉ nói ra các triết thuyết của ông mà thôi, và giống như trường hợp của Jesus, Phật, và Khổng Tử (những cuốn văn tuyển của họ hầu như được hoàn thành bởi các đệ tử). Theo yêu cầu của người lính đó, Lão Tử đã viết để lại cuốn "Đạo Đức Kinh". Nhiều cuốn ghi chép và bức tranh về Lão Tử còn lại đến ngày nay, thường thể hiện ông là một người già hói đầu với một chòm râu trắng hay đen và rất dài; ông thường cưỡi trên lưng một con trâu nước.
Khi ông đã khuất bên kia cửa ải, người đời không còn biết tung tích ông. Khảo chứng của người đời sau cho rằng bài viết về Lão Tử trong Sử ký hẳn do hậu thế thêm vào, còn lời cảm khái của Khổng Tử là do một đạo gia nào đó bịa ra để tôn vinh sư tổ của mình. Như thế, hình ảnh ông thầy già cưỡi trên lưng một con trâu nước đi ra quan ải và con rồng bay liệng trên không cũng chỉ ở trong cõi huyền thoại. Chúng tạo thêm vẻ thần bí mông lung, như hàng trăm câu chuyện khác về hành trạng và hoàn cảnh sáng tác của văn thi sĩ Trung Hoa thời cổ. Nhưng dù gì đi nữa, ngụ ngôn ấy cũng làm nổi bật thêm giá trị tư tưởng, cuộc sống lãng đãng và phong thái phiêu hốt của tác giả và làm hình ảnh của Lão Tử càng thêm huyền thoại.
3. LÃO TỬ VỚI ĐẠO ĐỨC KINH
Đạo đức kinh là cuốn sách chỉ khoảng 5000 chữ, gồm hai phần. Thượng là Đạo Kinh gồm 37 chương, bàn về Đạo lớn của vũ trụ. Hạ là Đức Kinh gồm 44 chương bàn về Đức. Lão Tử đã viết theo hình thức câu dài ngắn khác nhau, giàu âm điệu và đọc lên nghe như thơ tự do thời nay. Súc tích. Không chấm câu. Không lý luận. Không chứng minh dài dòng. Thể được dùng là cổ văn, một loại văn ngắn gọn, dễ thuộc lòng nhưng không dễ hiểu. Vì thế, nó có vẻ như chỉ gợi ý và bắt người đọc phải ngẫm nghĩ, tưởng tượng, lắng nghe tiếng dội lại từ lòng mình. Và người đọc có rất nhiều cơ hội tiếp nối quá trình sáng tạo, tư duy, cho tác phẩm sinh động, thấm sâu, được triển khai thêm theo mỗi lần đọc.
Ngoại trừ hai vấn đề chính là Đạo và Đức, sách còn trình bày kiến thức sơ lược về binh pháp, thiên văn, dưỡng sinh... Có người dựa vào nội dung, cắt nghĩa rằng mục đích của Lão Tử là truyền thông điệp trị quốc, một loại triết lý chính trị. Có người lại nhấn mạnh tới phẩm chất tâm linh đạo học của nó.
Các bản lưu truyền từ hơn hai ngàn năm nay có khác nhau đôi chút về một số chữ hoặc cách chấm câu. Năm 1973, tại Trường Sa, ngành khảo cổ học tìm thấy một bản bạch thư dưới một mộ cổ đời Hán, trong đó phần Đức Kinh được đem lên trước phần Đạo Kinh. Bản khai quật này có giá trị tham khảo rất lớn vì hơi khác các bản hiện hành. Cho tới nay, Đạo Đức Kinh có tới cả trăm bản dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, v.v. Riêng trong tiếng Việt có các bản dịch của Nguyễn Duy Cần, Nghiêm Toản, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Tôn Nhan…
4. SO SÁNH TƯ TƯỞNG VÔ VI CỦA LÃO TỬ VỚI TƯ TƯỞNG VÔ VI CỦA PHẬT GIÁO
4.1. Tư tưởng vô vi của Lão Tử
Khái niệm vô vi trong Đạo Đức kinh thường được hiểu lầm là không nên làm gì cả, nhưng thật ra Lão Tử khuyên rằng làm mà như không làm, và không làm những điều không nên làm. Ông cũng viết rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng có thể chảy đến bất cứ nơi nào, và với một khối lượng lớn thì có thể làm lở cả đất đá. Như vậy vô vi có thể ví von với cách hành xử của nước. Quan niệm vô vi của ông được đề cập với nhiều lĩnh vực mà ta sẽ bắt gặp trong Đạo Đức kinh.
4.1.1. Tư tưởng vô vi đối với vấn đề quốc trị
Tương tự như Khổng Tử, Lão Tử sinh trưởng trong giai đoạn chiến tranh triền miên cho nên rất ưu tư về vấn đề quốc trị. Ông thấy là “dân đói vì người trên lấy thuế nhiều cho nên dân đói, dân khó trị vì người trên theo hữu vi cho nên dân khó trị,”.. “thiên hạ nhiều kiêng kỵ thì dân càng nghèo; dân nhiều lợi khí thì quốc gia thêm mờ tối, người càng nhiều xảo thuật thì vật kỳ lạ càng xuất hiện, pháp luật càng sáng tỏ thì trộm cướp càng nhiều.” Và vì nhận xét như vậy cho nên Lão Tử chủ trương rằng người lãnh đạo quốc gia phải áp dụng sách lược vô vi để trở về (phản phục) với đạo hay cái gốc tự nhiên ban đầu thì mới có thể an bang tế thế.
“Phản phục (trở về) là cái động của đạo. “Động mà không động, không động mà động”, yếu mềm là cái dụng của đạo. Ông cho rằng với đường lối vô vi: lo cho dân no ấm, mạnh khỏe và dạy cho dân sống tự nhiên hợp với môi trường chung quanh, không suy nghĩ hay thèm thuồng mỹ vật. Một khi dân được ấm no, không bệnh tật và không ham chuộng của quý vật lạ cũng như không có nhu cầu khoe tài hay ganh đua để được lãnh tụ yêu mến thì dân đã thấm nhuần tinh thần vô vi (không làm); và khi đã theo vô vi rồi thì dẫu có kẻ tài trí, tham lam xách động nhân dân nổi loạn thì họ cũng không làm (vô vi). Như vậy, nếu muốn lòng dân không loạn thì người lãnh tựu của quốc gia phải biết lo cho dân, không đặc ra sưu cao thế nặng, không bóc lột.Lãnh tụ quốc gia phải biết thương dân, không thể chỉ đặt ra luật lệ và đợi dân làm sai rồi hành hạ, giam cầm, xử trảm. Lãnh tụ quốc gia có nhiệm vụ chỉ bảo nhân dân hướng thiện theo đạo chứ không thể đem cái chết ra hăm dọa nhân dân. Tương tự như con thú khi bị dồn vào chân tường thì cắn lại, nhân dân khi bị bóc lột, khổ sở hết mức thì hết sợ chết; mà khi nhân dân hết sợ chết thì sự dọa nạt của lãnh tụ trở nên vô dụng. Kẻ nào dùng bạo lực để trị quốc thì “hiếm khi không bị thương ở tay”. Thương dân thì phải lo cho dân no ấm, tránh sưu thuế cao và không ép buộc dân phục dịch. Nếu kẻ ở trên sống xa xỉ, thâu sưu thuế cao mà còn bắt dân phục dịch thì nhân dân chỉ có thể chịu đựng đến một mức độ nào đó rồi trở nên loạn bởi vì họ không còn sợ chết nữa. “Thánh nhân vi phúc, bất vi mục” (Thánh nhân vì cái bụng mà không vì con mắt). Lãnh tụ quốc gia không nên đam mê cái bề ngoài xa xỉ mà ngược lại phải biết thương dân, lo cho dân no bụng và tránh những hành động ép dân vào cái thế khinh tử.
Bậc thánh nhân chủ trương trị quốc theo phương pháp vô vi nhằm giảm thiểu phép tắc vốn được đặt ra để áp bức và trừng phạt nhân dân. Lãnh tụ quốc gia theo đạo sẽ hướng dẫn nhân dân noi theo gương của mình, dùng cái thanh liêm của mình để dạy dỗ dân bỏ đi lòng tham dục cũng như các hành động xấu. Dần dần nhân dân trở thành thuần hậu và sống theo tự nhiên, chất phác mà không bị phép tắc chính trị gò bó. Luật lệ hà khắc được đặt ra (hữu vi) nhằm khiến người ta sợ nhưng hiếm khi tiêu diệt hết được các tệ nạn xã hội; trong khi đó đường lối vô vi không dựa trên phép tắc rườm rà lại có thể cảm hóa nhân dân để họ theo con đường thiện hợp với cái đạo của tạo hóa.
Lão Tử không chủ trương dùng pháp luật để trị quốc mà cổ võ cho sách lược đạo trị (vô vi) để vạn vật phát triển tự nhiên (không bày ra phép tắc, xảo thuật để gò ép nhân dân). Theo ông, nếu muốn hướng thiện thì đừng trừng phạt kẻ xấu mà nên dùng tư cách thánh nhân để cảm hóa kẻ xấu.
Chính sách quốc trị cao nhất là đạo trị, rồi mới đến đức trị (nhân trị), và rồi đến pháp chế; chính sách xảo trị (dùng xảo thuật để cầm quyền) là phương pháp thấp nhất vì lãnh tụ không còn được nhân dân tin tưởng nữa mới dùng đến xảo thuật. Lãnh tụ không tin dân cho nên mới bày kế để gò ép dân; dân không tin lãnh tụ cho nên phải đóng kịch sợ sệt hay cung kính để lừa gạt lãnh tụ. Hai bên đều dùng bề ngoài xảo trá để làm bình phong che giấu sự bất tín.
Quốc gia lý tưởng trong nhãn quan của Lão Tử là một quốc gia nhỏ mà trong đó nhân dân sống thuận với thiên nhiên, biết vừa đủ mà không ham biết nhiều, không muốn tư dục, không ganh đua bề ngoài, mà chỉ sống theo đạo vô vi. Trong quốc gia lý tưởng này, người dân sống chất phác, hiền lành, thuần phục với thiên nhiên; bởi vì hài lòng với cuộc sống thiên nhiên, con người không lìa xa nơi sinh trưởng, không có lòng tham để tranh giành quyền lợi. Con người không tranh giành quyền lợi thì thiên hạ không có chiến tranh cho nên quốc gia dẫu có xe cộ, thuyền bè, binh giáp cũng không dùng đến. Khi người dân có đời sống thái hòa gần gũi với thiên nhiên thì lãnh tụ quốc gia có thể “giũ áo, chắp tay, không làm (vô vi)” mà thiên hạ cũng được thái bình.[3]
4.1.2. Tư tưởng vô vi với tự nhiên
“Vũ trụ bao la vô cùng tậnNhân sinh tự cổ vốn Vô Thường”
Trong Đạo Đức kinh Lão Tử viết: “vạn vật trong trời đất sanh từ có (hữu), (hữu) có sanh từ không (vô). Hữu vô đều từ thiên đạo”
“Không tức thị CóCó tức thị Không
Có có, Không không
Không không, Có có
Có rồi lại Không
Không rồi lại Có
Có cũng như không
Không tốt hơn có
Không có mà Có
Có vẫn hơn Không
Có Không, Không Có”
Hữu vô trong thể nghiệm của Lão Tử không có gì bằng nguồn gốc căn bản trước đó của vạn vật [4]. Trong sách Lão Tử viết: “vô, danh, thiên địa chi thỉ; địa, danh vạn vật chi mẫu”[5]. Vô là sự bắt đầu của trời đất , hữu là mẹ của vạn vật. Lão Tử tiếp tục khẳng định: “Cái bắt đầu trong thiên hạ, là mẹ của vạn vật trong nhân gian”[6] . Thiên đạo là nguồn gốc của sự bắt đầu, là mẹ của sự sanh thành, là cái vô siêu việt, lại là cái hữu nội tại; Thiên đạo độc lập, không thay đổi và tồn tại khắp nơi. Theo lập trường của Lão Tử: Thiên đạo không phải là vạn vật nếu không các nhược điểm của vạn vật thiên đạo đều có. Thiên đạo không thể tách rời vạn vật nếu không thì không thể duy trì sự tồn tại của mọi vật trong mọi lúc mọi nơi. Từ quan điểm “Thiên đạo không phải là vạn vật” có thể nói thiên đạo là vô Từ quan điểm “ Thiên đạo không thể tách rời vạn vật” có thể nói thiên đạo là hữu. Vô là tách hữu hạn không phải là vạn vật, hữu là hữu cùng tồn tại với vạn vật; Hữu vô đều là “đạo”.
Theo Lão Tử: con người vô vi, tự nhiên vô bất vi, thánh nhơn vô vi, bách tánh vô bất vi, thiên địa vô vi, trừ đi sai lầm của “ hành động tạo tác của con người”, thì sẽ trở về với sự tốt đẹp của tự nhiên, đây cũng là ý “ vô vi nhi bất vi của Lão Tử”. Bản chất của vô vi là vô bất vi, trong hạn định các khó khăn của nhơn sanh, cần có trí tuệ để nhìn nhận về sanh mạng có thể phá trừ chấp trước và hóa giải hành vi tạo tác của con người, sanh mạng con người là tạm thời, tự nhiên mới là trường cửu , cơ thể con người có thể bị hủy hoại nhưng thiên đạo thì vĩnh hằng. Theo Lão Tử thái độ sống “vô vi” của con người đó là con đường duy nhất trừ đi “tạo tác của con người” để trở về với tự nhiên. Con đường này chính là “đạo pháp tự nhiên” cũng chính là vô vi.[7]
Tại Trung Hoa, trước Lão Tử, chưa triết gia nào khởi xướng vũ trụ luận. Học thuyết trọng tâm của Lão Tử là Đạo và Đức.
Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Lão Tử đếm vài con số rồi phán như thế, và ta hiểu ý của ông cho rằng không thể định nghĩa Đạo, nhưng Đạo có trước vũ trụ và Đạo là nguồn gốc của vũ trụ. Theo Lão Tử, trời đất muôn vật do Đạo mà sinh thành. Đạo là cái hỗn mang chưa phân, là cái nguyên thủy và là sự vận động hằng cửu mà ta không thể cảm, không thể biết. Đạo vô danh vô hình, là căn nguyên và cốt lõi của muôn vật. Muôn vật đều khởi đi từ Đạo, đi theo Đạo và quay về Đạo.
Còn Đức? Chữ Đức ở đây không phải là đức hạnh hiểu theo lối luân lý thông thường, mà là phải hiểu theo nghĩa của Lão Tử. Đức là “mầm sống ngấm ngầm” trong vạn vật. Đạo thì sinh ra còn Đức thì nuôi nấng. Người sống có Đức là sống theo Đạo. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước tự nhiên.
Tới đây, ta chớm hiểu. Cái Đạo “phi thường Đạo” được Lão Tử nói đến là thiên nhiên, năng lượng sức sống và sự vận hành của thiên nhiên. Cũng có thể gọi là tự nhiên hoặc thiên lý. Và Đức là cứ theo tự nhiên mà sống, thuận theo thiên lý mà lưu hành. Trong cái Đạo của vũ trụ ấy, thiên nhiên và những qui luật của chúng tập hợp thành cái trụ cốt, cái bản thể, còn đất trời và sinh linh, v.v. là những thực thể có vị trí thích hợp và chức năng thích hợp, thao tác theo một thể thức tự nhiên. Đạo ấy chỉ được biết bằng trực quan, không bằng lý trí. Lão Tử không lập luận về Đạo vì ông chống lý trí. Theo ông, lý trí khiến ta nhìn cuộc đời với con mắt nhị nguyên, phân chia thế giới nội tâm và ngoại lai, con người với thiên nhiên, thế gian với vũ trụ, thiện và ác, vinh và nhục, đúng và sai, cao và thấp..., làm ta xa lìa đạo. Lão Tử không mất công giảng giải về Đạo, ông chống tri thức và trí năng. Ông cho rằng tri thức không giúp cho người ta sống theo Đạo và Đức. Nó chỉ làm cuộc sống thêm phức tạp; nó chế tạo cơ khí khiến sinh ra “cơ tâm”; nó bày đặt lý thuyết này nọ khiến đưa tới xung khắc... Trí năng khiến người ta phân biệt cái hay cái dở nên sinh ra ham muốn. Ông chủ trương bỏ trí năng, bỏ văn tự, bỏ việc dạy dỗ dân, để dân chúng sống mộc mạc, tự nhiên. Lão Tử không chịu nói nhiều về Đạo vì ông hiểu rõ giới hạn truyền đạt của ngôn ngữ. Tóm lại, Đạo, cái lý tự nhiên trong con người và vũ trụ, thì hư vô, mênh mông, sâu thẳm và ngập tràn tới độ nằm ngoài tầm nắm bắt của lý trí, nhận biết của tri thức và diễn đạt của ngôn từ. Lão Tử nhìn sự vật thường xuyên biến đổi và nhận ra luật mâu thuẫn nơi vẻ ngoài của vạn vật, “cái yên tĩnh là chủ của cái xáo động, cái quí lấy cái tiện làm gốc, cái cao lấy cái thấp làm gốc, cái thật đầy thì giống như trống không, con người thật khôn khéo thì trông giống như vụng về...”
Ông còn nhận ra luật phản phục ở bên trong vũ trụ, “vật gì phát tới cực điểm thì phản hồi, hễ tăng rồi thì phải hao giảm — trăng tròn rồi khuyết, hết mùa đông tới mùa xuân... Cùng tắc biến, biến tắc thông....” Trong cùng một lúc, bị chi phối bởi luật mâu thuẫn và luật phản phục, vũ trụ vận hành với Đạo, vạn vật đều nương tựa vào nhau mà sinh tồn và tương tác tạo điều kiện cho nhau “có và không cùng sinh; khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng nghiêng, thanh và âm cùng họa, trước và sau cùng theo”. Tuy Đạo không thể hiểu, không thể bàn, không thể nói nhưng Lão Tử cho rằng loài người chỉ tự mình phục vụ mình tốt nhất bằng việc đi trên con đường Đạo. Để xoay xở trong tình cảnh nghịch lý đó thì có Đức. Sống có Đức tức là sống không phân biệt nhị nguyên, không khiên cưỡng, sống tự nhiên, vi vô vi — làm một cách tự nhiên — và đi đúng con đường vận hành của Đạo.
4.2. Tư tưởng vô vi của đạo Phật
Nếu nhận định nghiêm túc thì khái niệm vô vi chỉ có ở Lão học, nó không giống với với khái niệm “vô của tánh không trung đạo duyên khởi”. “Vô của tánh không trung đạo duyên khởi” của triết lý Trung Quốc có nguồn gốc từ tư tưởng kinh “Bát Nhã” và luận “Duy thức” của Phật giáo Đại thừa Ấn Độ và được truyền vào Trung Quốc. Tư tưởng “vô của tánh không trung đạo duyên khởi” ở Trung Quốc được duy trì và phát triển mạnh để sau đó trở thành một thái độ và triết sống của con người Trung Quốc. Triết lý mà người ta hay nói là “vô vi của đạo Phật” đó là triết lý “tánh không của Bát Nhã”, tánh không này chẳng phải không làm gì cả mà là tánh không trung đạo duyên khởi, không để cho các vọng niệm sai lầm mê chấp của con người ảnh hưởng và tác đọng đến sự tồn tại của vạn sự vạn vật mà tiếp nhận sự tồn tại và không tồn tại của vạn vật theo các nhân duyên sanh khởi và hoại diệt của bản thân sự vật. Khi nhân duyên hòa hợp đủ thi các pháp sanh thì gọi là hữu nhưng tánh chất của pháp được gọi là hữu đó là không thật, nó chịu sự chi phối của luật sanh – trụ- dị- diệt và biến đổi tùy theo nhân duyên. Khi các nhân duyên không đầy đủ thì không có sự xuất hiện của các pháp và cái không xuất hiện này không phải là “vô” là “không” trống rỗng mà không có tác dụng tạo tác của ý thức và cũng không có sự hòa hợp của các nhân duyên nên pháp không xuất hiện. Sự xuất hiện tồn tại của vạn vật trong mối tương quan của tánh không trung đạo duyên khởi này không phải là “vô” và “ không” mà là không có tánh chất cố định thật mà tùy theo nhân duyên mà sanh hay diệt. Cái bản chất duy trì huệ mạng của con người và vạn vật để vận hành và tồn tại theo quy luật “ vô của tánh không trung đạo duyên khởi” đó không phải là ý thức mà là trí tuệ của Như Lai Tạng. Mọi con người đều có sẵn trí tuệ này nhưng mạt na thức chấp trước sanh ra các thứ ngã chấp về thâm căn con người, trần cảnh của thế giới mà sanh ra vô số sanh vọng ảo tưởng. Khi con người nhận thức được bản chất vạn pháp là không thật có, là duyên khởi thì các thức điên đảo được chuyển thành trí tuệ sáng suốt và cứu cánh viên mãn của tầm nhìn về trí tuệ đó là Phật tánh, là Như Lai Tạng, là Niết Bàn
Chú ý: Cần kết hợp nội dung “bát nhã tánh không trung đạo và quá trình vận hành của các pháp theo chiều thuận và nghịch từ tâm sanh chấp có ra vạn pháp, ngay từ vạn pháp có cái nhìn sáng suốt không chấp trước để đưa thức trở lại với bản tánh thanh tịnh của Như Lai, quá trình kết hợp không của “ bát bất trung đạo” và bách pháp duy thức để triển khai ý “vô của tánh trung đạo duyên khởi”. Triển khai được “vô của tánh không trung đạo” thì mới rõ được điểm gần giống và khác nhau của vô vi của Lão Tữ và vô vi – “ vô của tánh không trung đạo duyên khởi” của Phật học
Tham khảo từ giáo trình triết học Trung Quốc bản tiếng Hán của Đại Hoc Quốc Lập Không Trung Đài Loan do nhóm giáo sư Dương Tổ Hán biên soạn. Chú ý cần kết hợp tốt phần ghi chép nội dung bài giảng của giảng viên bộ môn, không quá tin vào tài liệu tham khảo này.
5. SO SÁNH VỀ HAI TƯ TƯỞNG
Tư tưởng vô vi của Lão giáo vẫn ở trong cuộc đời dù không bon chen, tranh dành, nhưng khi có vẫn nhận hưởng, còn tư tượng Phật Giáo bắt đầu từ chữ “Không” và có khuynh hướng xuất thế.
Phật - Lão - Nho là 3 triết thuyết lớn ảnh hưởng quan trọng tới đời sống tinh thần của người phương đông trong đó có người Việt chúng ta. Ngã Phật từ bi, Lão chủ vô vi, Nho dụng hữu vi mà độ, mà răn, mà tế thế. Chủ thể của Nho là người quân tử, đối tượng của Lão là các bậc đế vương, còn Phật gia chỉ mong độ chúng sanh đạt thành Phật đạo. Bàn về vô vi thì luận trong tư tưởng của Lão giáo và Phật giáo đều có đề cập. Thật sự có khác nhau về cơ bản trong tư tưởng vô vi của hai giáo, đó là sự chấp nhận “cái nguyên lý ban đầu” của Lão không giống “nhân duyên” của Phật còn hành xử vô vi thì giống nhau.
Lão viết : “Đại Đạo phế hữu nhân nghĩa” , lại viết: “hành vô vi chi Đạo” tức là Lão tin rằng có một quyền năng rất lớn bao trùm thế giới đó là Đạo, Đạo có sức mạnh lan tỏa khắp vũ trụ ảnh hưởng tới thịnh suy của mọi đời người, mọi thời cuộc. Đó là cái nguyên lý ban đầu mà Lão Tử đã đưa ra như là một đấng Toàn năng điều khiển thế giới, đó là nguyên lý “hữu thần” trong hầu hết giáo lý của các tôn giáo ngoại trừ Phật giáo. Phật chỉ ra rất nhiều thế giới thần linh nhưng tất cả đều bị chi phối của luật nhân quả , nên dưới góc nhìn của Phật giáo chúng thần, thiên, nhơn, atula v.v... cũng chỉ là quảng đại chúng sanh cần phải tu tập, tuyệt nghiệp mới thành Phật đạo. Phật nói “ta là Phật, các ngươi sẽ là Phật” tức chỉ ra nhơn duyên sanh quả Phật do tu đắc mà thành, chứ không có vị Phật nào của các vị Phật điều khiển sự “thành Phật” của chúng sanh, hay nói khác đi là sự thịnh suy của mọi đời người, mọi thời cuộc do chính nhân duyên của đời người đó, thời cuộc đó quyết định. Đây là nguyên lý “vô thần” của Phật giáo và nó là sự khác nhau cơ bản về tư tưởng so với các tôn giáo khác trong đó đó Lão giáo.
“Hành vô vi chi Đạo” nghĩa đen là không làm gì cả, có nghĩa là bảo ta không làm cái không nên làm chứ không phải là bảo ta làm biếng, các bậc đế vương thấy được cái không nên làm để không làm tức là Thánh đế, nhưng lẽ thường người đời thường xảo biện nên Đạo lớn của Lão tử khó thành.Lão Tử than: “Đại Đạo phế hữu nhân nghĩa, huệ trí xuất hữu đại ngụy ...”. Loài người càng khôn ngoan hơn thì sự dối trá càng nhiều hơn và dùng “Lễ” để che đậy khéo léo hơn , và cái sự làm “cái không nên làm” ngày càng nhiều hơn , chính vì thế mà Lảo vô cùng khinh “Lễ” đặt nó xuống cùng trong trật tự xếp đặt của Ngài đó là Đạo-Đức-Nhân-Nghĩa-Lễ. Có lẽ không đắc thời để phổ biến thuyết Đại Đạo của mình nên Lão làm cái nên làm của mình là mất đi, mặc cho hậu thế bình phẩm. Cũng đúng thôi vì Lão chỉ dùng vô vi để dạy cách làm vua, mong trên đời xuất hiện nhiều Thánh đế - một chuyện khó xảy ra vì mấy ai không tư lợi hám giành quyền lực - nhờ Nho học hữu vi các vị quân vương mới được bảo vệ bằng bình phong lễ giáo rất hữu hiệu, nào là Tam cương, Ngũ thường, thuyết Thiên mệnh v.v... Nói như vậy không có nghĩa là không tồn tại Lão giáo, mà tư tưởng Lão giáo luôn phát triển, góp phần giáo dục nhân sinh quan cho từng cá nhân, luôn tự răn mình phải làm người tốt, không để ảo ảnh hữu vi lôi kéo cám dỗ, lịch sử đã minh chứng có nhiều tấm gương hành vô vi chi sự mà tên tuổi lưu mãi nghìn thu. Đạo Phật thường bảo “không gây nghiệp chướng thì không phải trả nghiệp”, lời răn này thấy sao giống lời của Lão bảo “đừng làm cái không nên làm” vì thế nói về lối hành xử vô vi thì Phật -Lão tương đối giống nhau , có khác chăng chỉ là mục đích cuối cùng của hai đạo.
Các bậc minh sư của nhà Phật ở nước ta phần lớn đều am tường Đạo pháp, trước khi đến với kinh kệ Phật giáo các Ngài đều là học trò của Khổng Lão, nhờ tứ thư ngũ kinh mới có vốn chữ Nho để nghiên cứu Kinh-Luật-Luận, vì thế Nho học và Lão học ảnh hưởng rất lớn về mặt nhận thức của các vị. Kết hợp nhuần nhuyễn sự tương đồng trong hành vô vi chi sự, các ngài đã sáng lập nhiều tông phái giáo chúng rất đông tín đồ, ví như ngài Trần Nhân Tông bỏ ngôi vua nhưng không mong thành thánh đế, ngài hành vô vi theo kiểu nhà Phật, lấy từ bi làm gốc để độ chúng, sáng lập thiền phái Trúc Lâm truyền đời đến tận ngày nay.
Không những thế đạo Lão còn quan niệm về cái tâm của con người:
Tướng do tâm sanh
Tâm tịnh Thần sáng
Thần sáng Trí minh
Tâm bất tịnh, Thần suy
Thần bất tịnh Trí bất minh
cũng tương tự như Phật giáo với quan niệm “Nhất thiết duy tâm tạo” , tất cả đều do tâm này làm chủ tạo tác những thiện nghiệp hoặc ác nghiệp. Nó tương ứng với những hành nghiệp mà chúng sanh đó đã tạo thiện hay bất thiện mà hiện tướng “thần minh trí sáng”.
Có thể nói hai quan điểm về tâm của hai tư tưởng tương tự nhau, đó là điểm tương đồng. Ông khuyên tri nhân giả trí, tự tri giả minh, nghĩa là biết người khác chỉ mới là trí, nhưng tự biết mình thì mới là sáng. Như vậy ông chú trọng đến việc tự chinh phục bản thân hơn là chinh phục kẻ khác. Nên bằng lòng với cái mình có, “tri túc chi túc hà thời túc, tri nhàn chi nhàn hà thời nhàn”, nghĩa là biết đủ thì đủ và lúc nào cũng đầy đủ cả, biết nhàn thì nhàn và lúc nào cũng nhàn cả. Một đặc tính căn bản của sách lược vô vi của Lão Tử là tiết kiệm. Thánh nhân không phí sức, phí công thi triển tài năng, mà ngược lại thì tằn tiện trong mọi trường hợp để bồi bổ, nuôi dưỡng ngay cả trong lúc phải thi thố tài năng. Sự sung mãn, dồi dào đến từ nỗ lực tiết kiệm lâu dài sẽ đem đến thắng lợi. Đạo Phật cũng khuyên người nên biết đủ với những gì mình đã có, không lãng phí mà biết giữ gìn phước về sau. Sự tạo phước rất khó khăn nên phải biết tích trữ phước, nếu không khi phước không còn thì ắt phải bị đọa lạc.
Với những quan niệm và những diễn giải tổng hợp và biện chứng về tư tưởng vô vi, Lão giáo đã sản sinh ra một hệ thống triết học đặc biệt gắn một cách lôgích nhận thức luận với bản thể luận. Chính vì thế mà học thuyết về vô vi của Lão Tử đã được đồng nhất với giáo thuyết của đạo Phật.
KẾT LUẬN
Tác phẩm của Lão Tử, cuốn Đạo Đức Kinh, là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ý nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác của ông, đụng chạm tới nhiều vấn đề của triết học từ tính chất duy linh của cá nhân và động lực giữa các cá nhân cho đến các kỹ thuật chính trị. Lão Tử đã phát triển khái niệm "Đạo", với nghĩa là "Con Đường", và mở rộng nghĩa của nó thành một trật tự vốn có hay tính chất của vũ trụ: "(đạo là) cách thức của thiên nhiên". Ông nhấn mạnh khái niệm vô vi, hay "hành động thông qua không hành động". Điều này không có nghĩa là người ta chỉ nên ngồi một chỗ và không làm gì cả, mà có nghĩa là ta phải tránh các mục đích rõ rệt, các ý chí mạnh, hay thế chủ động; ta chỉ có thể đạt tới hiệu quả thực sự bằng cách đi theo con đường của mọi vật, tự động tăng và tự động giảm. Những hành động được thực hành theo Đạo rất dễ dàng và có hiệu quả hơn mọi cố gắng để chống lại nó. Lão Tử tin rằng cần phải tránh bạo lực khi có thể, và rằng một chiến thắng quân sự nên là dịp để đau buồn thay vì ăn mừng chiến thắng.
Tương đạo Phật tư tưởng vô vi được đề cập thông qua hệ thống kinh Bát Nhã và một số tư tưởng về vô vi của Lão Tử đã tương đồng nhưng bên cạnh đó cũng có các điểm khác nhau. Cách giải thích tư tưởng của Lão Tử luôn sử dụng sự nghịch biện, loại suy, sử dụng các câu nói từ trước, lặp lại, đối xứng, vần và chuỗi sự kiện lặp lại. Những đoạn văn được cho là của ông rất giống thơ và khó hiểu. Chúng được coi là những điểm khởi đầu cho sự suy xét về vũ trụ học hay quan sát nội tâm. Nhiều lý thuyết mỹ học trong nghệ thuật Trung Quốc bắt nguồn từ những ý tưởng của ông và người kế tục nổi tiếng nhất của ông là Trang Tử. Có thể nói tư tưởng vô vi của Trang Tử và tư tưởng vô vi của của đạo Phật đã gặp nhau ở một điểm nào đó.
Lược dịch
Pic : Vương
BA ĐIỀU HỌC ĐƯỢC TỪ LÃO TỬ
Hôm qua đọc
được một câu chuyện rất hay, hôm nay viết chia sẻ cùng với mọi người nhé: câu
chuyện là cuộc nói chuyện cuối cùng giữa Lão Tử và Thường Thu. Ba bài học cuối
cùng mà Lão Tủ dành cho học trò vô cùng ý nghĩa, bạn đọc và ngẫm như xem sao
nhé:
Bài học thứ
nhất: Lão Tử nói với Thường Thu rằng: đi qua quê nhà phải xuống xe, để răn mình
không được quên cha mẹ người thân. Không được quên những ngày khốn khó trước
đây! Điều này rất nhiều người trong xã hội đã không làm được! Họ lúc nào cũng
nghĩ: mình tài giỏi như thế này, giàu có như thế này, sang trọng như thế này tại
sao phải nhớ đến những ngày còn ở quê nghèo! Họ đánh mất đi gốc gác của mình!
Buông ánh mắt khinh rẻ, coi thường những người xuất thân từ nông thôn lên thành
phố lập nghiệp! Họ quên rằng, mình cũng từ đó mà thành công như bây giờ! Đáng lẽ
ra phải nâng đỡ những người con của quê nghèo lại cố gắng cắt đứt liên lạc để
không ai phát hiện ra mình từ “ quê” lên! Thật xấu hổ vì họ quên mất đạo lý: uống
nước nhớ nguồn!
Bài học thứ
hai đó là: đi qua cây lớn phải từ từ! Bài học này răn dạy con người ta phải biết
yêu kính những người lớn tuổi! Họ đã sống hơn chúng ra rất nhiều thời gian, họ
biết những cái chúng ta chưa từng trải qua và cho dù ngày nay công nghệ phát
triển cỡ nào thì kinh nghiệm đúc kết vẫn giúp họ sống tốt giữa cuộc đời đầy biến
động này! Thế nên đừng nghĩ mình biết dùng laptop, iphone…lại coi thường sự hiểu
biết của những người lớn tuổi! Hãy yêu thương và kính trọng họ để bạn biết sống
tốt đẹp hơn! Có những người thấy người già thì nhìn bằng ánh mắt coi thường
khinh rẻ! Họ sợ những người đó sẽ ăn bám họ, họ sợ phải nuôi nấng và chăm sóc
những người đó! Nhưng đừng bao giờ quên, kính già già để đức cho, bạn nhé!
Chúng ta làm gì cũng nên tạo cái đức cho mình và con cháu .
Bài học thứ
ba: lưỡi không còn nhưng răng còn! Bài học này răn dạy bạn phải biết sống và đối
nhân xử thế một cách đúng mực! Nếu bạn quá cứng rắn hay lạnh lùng và nhẫn tâm bạn
sẽ chẳng bao giờ biết có được sự coi trọng và yêu thương từ người khác! Nếu bạn
quá cứng rắn sẽ làm tổn hại đến mối quan hệ của bạn với những người xung quanh!
Người xưa nói: mềm nắn rắn buông mà bạn! Chúng ta cần biết lúc nào nên cứng rắn,
lúc nào không nên để có đạo làm người được người khác coi trọng! Mềm có lúc, rắn
có lúc như thế chúng ta mới không bị cái xô bồ của cuộc sống xô ngã! Bạn biết
vì sao lưỡi còn còn răng lại không không? Đó là vì: lưỡi mềm còn răng cứng! Đạo
làm người và đối nhân xử thế đều nằm trong ở đây cả! Cần biết lúc năm lúc buông
để không bao giờ trở thành kẻ bị đẩy ngã khỏi cuộc sống!
Cuối cùng, bạn
đã đọc xong ba bài học của lã Tử dành cho học trò của mình rồi đấy! Chỉ cần như
thế bạn có thể sống và làm người một cách xuất sắc rồi! Đừng bao giờ quên ba
bài học này cho mình nhé bạn!
Lược dịch
Pic : Vương
NHỮNG LỜI RĂN DẠY CỦA LÃO TỬ
Lão Tử không phải là tên thật của một ai nhưng được kính cẩn trao cho các nhà triết học. Lão Tử được gán với các văn bản của các "Tao- Te Ching" (tao - phương tiện , cách sống. Te - có nghĩa là những việc được sử dụng phù hợp với cuộc sống của người dân . Ching- phương tiện, văn bản hoặc cổ điển ). Thậm chí Lão Tử được coi là cha đẻ của Đạo giáo. Có rất nhiều truyền thuyết về người đàn ông cao quý này. Theo truyền thống tiểu sử nổi tiếng , ông đã làm việc như người lưu trữ thông tin cho vương triều nhà Chu . Nhiều người trong số các nhà nghiên cứu chấp nhận rằng Lão Tử đã gắn bó với một người, và đã có một con trai tên là Zong, người đã trở thành một người lính nổi tiếng. Sau khi thấy công việc của mình ở quan trường không còn có thể thực hiện, ông đã bãi quan về quê, và hình ảnh của ông là một ông già râu tóc bạc phơ hiền từ ngồi trên lưng trâu. Những người ở vương triều mong ông có thể ghi lại các suy nghĩ của ông, nên ông đã viết “Tao-Te Ching” gồm hơn 81 chương nói về những lời răn dạy con người về cách sống. Sau đó không còn nghe ai nói về ông. Các triết lý của ông giúp con người có một cách tự nhiên để sống cuộc sống với sự tốt lành , yên tĩnh và tôn trọng. Ông tin rằng hành vi của một người cần được điều chỉnh bằng trực giác và lương tâm. Quan niệm của Lão Tử là một trong những đề tài đáng chú ý nhất trong lý thuyết Trung Quốc hay câu chuyện của sự bắt đầu và phát triển của vũ trụ , hệ thống năng lượng mặt trời , hoặc các hệ thống trái đất – mặt trăng.
Đạo Đức Kinh (Tao Te Ching) được viết bởi Lão Tử giải thích cách sống và tất cả những gì liên quan đến cuộc sống. Đạo Đức Kinh được viết ở Trung Quốc khoảng 2.500 năm trước đây, tại cùng một thời điểm khi Đức Phật minh họa Phật Pháp ở Ấn Độ và Pythagoras giảng dạy ở Hy Lạp. Đạo Đức Kinh gần như chắc chắn là cuốn sách mạnh mẽ nhất của Trung Quốc trong mọi thời đại. Các chương của nó đã được chuyển đổi thành giờ tiếng Anh nhiều hơn bất kỳ tài liệu khác của Trung Quốc.
Chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc một số lời răn dạy phổ biến
1. Tôi chỉ có ba điều để dạy: đơn giản, kiên nhẫn, lòng từ bi. Đó là 3 kho báu lớn nhất của bạn.
2. Nếu bạn muốn có cái gì, hãy cho đi trước đã. Đó là khởi đầu của trí tuệ
3. Bắt đầu những việc khó khăn của bạn bằng từng bước nhỏ. Một cuộc hành trình ngàn dặm bắt đầu bằng một bước duy nhất.
4. Tất cả những điều khó khăn có nguồn gốc của nó là sự dễ dàng, và những điều tuyệt vời trong đó sự khó khăn là nhỏ.
5. Trong chính tâm hồn bạn, bạn có câu trả lời, bạn biết bạn là ai và bạn biết những gì bạn muốn.
6. Ai kiểm soát những người khác có thể là mạnh mẽ, nhưng làm chủ được chính mình mới là người có quyền năng hơn
7. Ai biết đủ là đủ thì sẽ luôn luôn có đủ.
8. Người biết sẽ không nói, còn người nói sẽ không biết
9. Quản lý một quốc gia vĩ đại là như nấu một con cá nhỏ - quá nhiều điều phải xử lý sẽ làm hỏng nó.
10. Sức khỏe là sở hữu lớn nhất. Sự hài lòng là kho tàng lớn nhất. Tự tin là người bạn lớn nhất
11. Cuộc sống là một loạt các thay đổi tự nhiên và tự phát. Chống lại chúng chỉ tạo ra nỗi buồn. Hãy sống thực tế. Hãy để mọi thứ tự nhiên chảy về phía trước trong bất cứ cách nào họ muốn.
12. Lấp đầy miệng bát, nó sẽ tràn. Dao mài suốt nó sẽ cùn
13. Được yêu thương sâu sắc bởi một người nào đó cung cấp cho bạn sức mạnh, trong khi yêu ai đó sâu sắc sẽ cho bạn sự can đảm.
14. Tự chủ là cơ sở cho sự thành công, cho chính mình cũng như với những người khác.
15. Nếu bạn không thay đổi hướng, bạn có thể kết thúc ở nơi bạn đang đi.
16. Công việc lãnh đạo tốt nhất được thực hiện khi mọi người đều nói, "Chúng tôi đã làm điều đó như làm cho chính bản thân mình."
17. Một học giả muốn nuôi dưỡng tình yêu của sự thoải mái thì không phù hợp để được coi là một học giả.
18. Tình yêu là niềm đam mê mạnh nhất, vì nó tấn công cùng một lúc vào đầu, tim và tất cả các giác quan.
19. Người trong cuộc xử lý các vấn đề của họ thường thất bại khi họ sắp thành công. Nếu họ vẫn cẩn thận ở vào phút cuối như đã làm ngay từ đầu, họ sẽ không có thất bại.
20. Khi bạn hài lòng với việc chỉ đơn giản là chính mình và không so sánh hay cạnh tranh, tất cả mọi người sẽ tôn trọng bạn.
21. Không có thiên tai lớn hơn mong muốn xa hoa. Không có cảm giác tội lỗi nào lớn hơn sự bất mãn. Và không có thảm họa nào lớn hơn sự tham lam.
22. Đừng nghĩ rằng bạn có thể đạt được tất cả nhận thức và toàn bộ giác ngộ mà không có kỷ luật thích hợp và thực hành. Năng lượng cuộc sống của bạn ở phía ánh sáng . Nếu không có kỷ luật để thực hành chúng, bạn sẽ liên tục lùi vào bóng tối.
23. Nổi tiếng hay toàn vẹn :cái nào quan trọng hơn? Tiền hay hạnh phúc : điều nào có giá trị hơn? Thành công hay thất bại : điều gì phá hoại hơn? Nếu bạn nhìn vào những người khác, bạn sẽ không bao giờ thực sự là chính mình. Nếu hạnh phúc của bạn phụ thuộc vào tiền bạc, bạn sẽ không bao giờ hài lòng với chính mình. Hãy bằng lòng với những gì bạn có, hãy vui mừng trong mọi sự . Khi bạn nhận ra bạn không có gì là thiếu thốn, cả thế giới thuộc về bạn.
24. Mạnh và cứng sẽ bị phá vỡ . Sự mềm mại và dẻo dai sẽ chiếm ưu thế
25. Suy nghĩ sẽ thành lời nói. Lời nói sẽ mang lại hành động. Hành động sẽ thành thói quen. Thói quen sẽ hình thành cá tính. Và cá tính tạo nên số phận của bạn
Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014
Bói tình duyên bằng máy tính
Rất đơn giản, bạn chỉ cần có 1 chiếc máy tính, bấm các con số và làm các phép tính...
Cùng xem bói tình duyên bằng máy tính: Hãy lấy số ngày tháng năm sinh cua bạn ngày tháng năm sinh của người ấy => kết quả ra số chẵn thì chia 2, ra số lẻ thì cộng thêm 1 rồi chia cho 2 cho đến khi nào kết quả ra 2 chữ số từ 10 đến 19. Bói tình duyên.
Ví dụ: Mình sinh ngày 06/09/1991 và "người ấy" cua mình sinh ngày 28/12/1987, mình lấy 2 dãy số này cộng với nhau:
06091991 28121987 = 34213978
Bạn để ý khi xem bói tình duyên nhé chữ số cuối cùng của dãy số này là 8 => số chẵn bạn lấy dãy số này chia cho 2: 34213978 /2=17106989 => số cuối cùng của dãy này là số 9 vậy là số lẻ bạn cộng dãy số này với 1 và chia cho 2: (7106989 1) / 2= 8553495 vậy số cuối cùng lại là số lẻ, lại tiếp tục các bước trên. Bói tình duyên bằng máy tình thì các bạn cứ chia hết cho đến khi dãy số chỉ còn 2 chữ số từ 10 đến 19. Như vậy sau khi chia hết kết quả của mình là số 17. Dưới đây là kết quả của các con số của 2 bạn khi bói tình duyên bằng máy tính được.
10. Thinh thích
11. Tham lam
12. Bạn bè
13. Có tình cảm
14. Tình yêu
15.Đơn phương
16. Ghét
17. Chờ đợi
18.Vợ chồng
19. Bình thường
Sau khi xem bói tình duyên bằng máy tính thì con số của mình là 17 =>cho đợi, hix đau lòng quá nhưng đúng là sự thật!!!
Chúc vui vẻ và hanh phúc!!!
Bói tình duyên theo ngày sinh
Bạn muốn biết “vận mệnh” tình yêu của mình trong năm mới? Hãy cộng các con số trong ngày sinh của bạn đến khi chỉ còn một số duy nhất và xem bói “bình giải” dưới đây nhé.Ví dụ cụ thể về bói tình duyên theo ngày sinh: nếu bạn sinh ngày 20-11 thì con số của bạn sẽ là 2+0=2; nếu bạn sinh ngày 29-3, cách tính con số để xem vận tình yêu là lấy 2+9=11, rồi lấy 1+1=2, đây là con số của bạn.
Số 1: Bạn là số 1 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 1, 10, 19 và 28
Những người số 1 sở hữu phẩm chất lãnh đạo mạnh mẽ, lạc quan nhưng lúc nào cũng thờ phụng cái tôi.
Năm nay sẽ là một năm tình yêu đầy lãng mạn và không hề có xung đột với những người số 1. Những người độc thân sẽ tìm được người yêu còn những người đang có người yêu sẽ có một năm yêu đương thuận buồm xuôi gió. Bói tình duyên.
Lời khuyên: Hãy hào phóng khi tặng quà cho người yêu.
Số 2: Bạn là số 2 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 2, 11, 20 và 29
Dễ thay đổi tâm trạng là đặc điểm thường thấy ở những người số 2. Họ có tâm hồn nhạy cảm và dễ dàng sa vào lưới tình. Họ giàu trí tưởng tượng và có trái tim lãng mạn.
Năm nay, những người số 2 đã kết hôn có cuộc sống tình cảm lãng mạn và hạnh phúc. Còn những người độc thân cần kiểm soát tâm trạng dễ thay đổi của mình để hưởng trái ngọt của tình yêu ở mức cao nhất.
Lời khuyên: Hãy xử sự với người yêu theo một phong cách tốt nhất mà bạn có thể. Trò chuyện là chìa khóa thành công cho tình yêu của bạn.
Số 3: Bạn là số 3 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 3, 12, 21 và 30
Những người số 3 nổi tiếng bởi những hành động bốc đồng. Hướng ngoại và tính tình thoải mái, họ có một cuộc sống xã hội sôi nổi.
Năm 2012 không phải là một năm rất tốt xét về mặt tình yêu đối với những người số 3. Họ phải chăm sóc những mối quan hệ mới với sự cẩn trọng cao nhất hoặc dễ rơi vào bẫy.
Lời khuyên: Tránh việc thuyết giáo người yêu, thay vào đó hãy xin người ấy lời khuyên. Hãy cùng người yêu tham gia một số hoạt động chung. Bói tình duyên.
Số 4: Bạn là số 4 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 4, 13, 22 và 31
Với bản tính thẳng thắn, những người số 4 rất tham vọng và khao khát tạo ra một vị thế riêng cho mình. Họ hơi khô khan về mặt tình yêu, nhưng đồng thời lại rất giàu cảm xúc.
2012 là một năm trung bình cho những người số 4 đã kết hôn, và là một năm đầy những sự rối loạn và bất ngờ cho những người độc thân. Đây là năm có thể tạo dựng hoặc làm hỏng một tình yêu, là năm quyết định vận mệnh tình yêu của những người số 4.
Lời khuyên: Cố gắng đừng gây hấn với người yêu và liên tục gây bất ngờ cho người ấy để tạo sự gắn kết.
Số 5: Bạn là số 5 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 5, 14 và 23
Những người số 5 là những người vô tư lự, lúc nào cũng yêu đời đến mức tối đa. Với bản chất dễ tính, họ được người xung quanh rất quý mến. Bói tình duyên.
Dự đoán năm nay những người số 5 sẽ có sự tươi mới trong các mối quan hệ cũ. Đây có thể là tin tốt cho những người đang mong mỏi tình yêu, người yêu cũ có thể gõ cửa trái tim bạn một lần nữa. Nhưng những người đã có đôi lứa thì nên cẩn thận kẻo có tai họa vì “tình cũ không rủ cũng đến”. Việc thân mật với người cũ có thể ảnh hưởng đến mái ấm gia đình, vì vậy bạn nên thận trọng.
Lời khuyên: Hãy kết nối với người yêu trên phương diện trí tuệ và bạn sẽ được bao bọc bởi tình yêu.
Số 6: Bạn là số 6 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 6, 15 và 24
Thanh lịch là đặc điểm nổi bật nhất ở những người số 6. Có thể coi họ là những chuyên gia quyến rũ vì không ai có thể thoát được vẻ duyên dáng bẩm sinh của họ.
Năm nay, cuộc sống tình yêu của những người số 6 giống như một bông hồng không có gai. Dù đã kết hôn, đang yêu hay đang tìm tình yêu, chuyện tình cảm của họ đều rất thanh bình và êm ả. Bói tình duyên
Lời khuyên: Hãy duy trì sự lãng mạn của tình yêu bằng cách cùng người yêu xem những bộ phim tình cảm.
Số 7: Bạn là số 7 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 7, 16 và 25
Những người số 7 luôn làm cả thế giới ngạc nhiên với những ý tưởng đổi mới của mình. Họ cũng nổi tiếng bởi cung cách tay chơi và hay tán tỉnh. Bói tình duyên.
2014 mang đến tin tốt lành cho những người số 7 còn độc thân, họ có nhiều cơ hội gặp gỡ những đối tượng mới và có thể có mối quan hệ vững bền.
Lời khuyên: Hãy cùng người yêu thăm viếng những nơi thần thánh.
Số 8: Bạn là số 8 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 8, 17 và 26
Hầu như lúc nào cũng bị bạn bè hiểu lầm, những người số 8 là những đứa con của số phận. Cuộc sống của họ hết thăng rồi lại trầm.
Kết nối lại những mối quan hệ cũ có thể mang lại trái ngọt cho tình yêu của những người số 8 còn độc thân vì họ có thể tìm người yêu trong số những người quen cũ. Nhưng những người đã kết hôn cần cẩn thận vì ngọn lửa tình cũ có thể cháy bùng trở lại và dẫn đến những sự rắc rối. Bói tình duyên.
Lời khuyên: Bởi vì rất dễ bị hiểu lầm, những người số 8 phải làm cho người yêu nhận thấy những nỗ lực mà bạn làm cho người ấy. Thay vì thuyết giáo, hãy biểu lộ với người yêu sự quan tâm chân tình của bạn.
Số 9: Xem bói là số 9 nếu ngày sinh của bạn là ngày: 9, 18 và 27
Những người số 9 giàu tình cảm và rất mực trung thành trong các mối quan hệ.
Nhưng đừng hi vọng năm nay bạn sẽ có những điều kỳ diệu trên “mặt trận” tình yêu. Trong suốt cả năm nay, người số 9 có thể liên quan đến rất vô số người yêu. Hãy cẩn thận kẻo chuyện tình cảm gây hại cho thanh danh. Bói tình duyên.
Lời khuyên: Hãy để người yêu thấy rằng bạn là người sáng tạo. Sự thành công của những người số 9 nằm ở sự sáng tạo.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)